Tham
nhũng
vặt
(TNV)
là
hành
vi
lạm
dụng
quyền
lực
diễn
ra
hàng
ngày
bởi
chủ
thể
công
quyền/công
chức
trong
những
giao
tiếp
thông
thường
của
họ
với
người
dân
khi
tiếp
cận
hàng
hóa,
dịch
vụ
cơ
bản
ở
những
nơi
công
cộng
như
bệnh
viện,
trường
học,
sở
cảnh
sát
và
các
cơ
quan
khác
[2].
TNV
thường
biểu
hiện
bằng
các
hành
vi
hối
lộ
hoặc
nhũng
nhiễu,
vòi
vĩnh
trong
cuộc
sống
hàng
ngày,
bao
gồm
cả
các
giao
dịch
tư
nhân
và
ở
cấp
cơ
sở
của
chính
quyền
[3].
Từ
bản
thân
thuật
ngữ
TNV
đã
cho
thấy
quy
mô
của
các
giao
dịch
trong
dạng
tham
nhũng
này
về
căn
bản
không
tác
động
đến
tổng
nguồn
thu
hoặc
chính
sách
về
tài
chính
của
nhà
nước.
Tuy
nhiên,
tham
nhũng
nói
chung,
TNV
nói
riêng
đều
là
những
hành
vi
gây
nguy
hại
cho
xã
hội,
vì
nó
được
tạo
nên
bởi
các
yếu
tố:
(i)
thiếu
kiểm
soát
việc
thực
hiện
quyền
lực
công;
(ii)
sự
thiếu
thận
trọng
trong
giải
thích
pháp
luật,
đặc
biệt
là
trong
việc
xác
định
chủ
thể
hưởng
lợi
hay
các
quy
trình,
giấy
tờ
phù
hợp
và
(iii)
thiếu
cơ
chế
chịu
trách
nhiệm
[4].
Hành
vi
đòi
hối
lộ
của
công
chức
tham
nhũng
có
thể
diễn
ra
theo
nhiều
cách
khác
nhau,
đó
là
những
lời
đề
nghị
trực
tiếp
hoặc
gián
tiếp,
thậm
chí
là
đe
dọa,
với
lời
hứa
sẽ
đẩy
nhanh
quá
trình
ra
quyết
định,
cấp
phép,...
Trên
thực
tế,
việc
thực
thi
quyền
lực
độc
quyền
của
nhà
nước
có
tác
dụng
phân
phối
lại
thu
nhập
từ
người
sử
dụng
dịch
vụ
bằng
cách
thu
phí
nộp
vào
ngân
sách
nhà
nước
nhưng
cũng
đồng
thời
tiềm
ẩn
nguy
cơ
quyền
lực
bị
lạm
dụng
[5].
Như
vậy,
về
cơ
bản,
TNV
có
những
đặc
điểm
tương
tự
như
tham
nhũng
nói
chung,
cụ
thể
(i)
là
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật,
gắn
liền
với
sự
lạm
dụng
quyền
lực,
(ii)
có
sự
tham
gia
của
chủ
thể
công
quyền
và
(iii)
được
thực
hiện
nhằm
mục
đích
thu
lợi
bất
chính.
Khác
với
“tham
nhũng
lớn”
(
grant
corruption)
là
loại
tham
nhũng
xâm
nhập
đến
những
cấp
cao
nhất
của
nhà
nước,
làm
xói
mòn
lòng
tin
của
người
dân
và
các
nhà
đầu
tư
vào
sự
quản
lý,
các
nguyên
tắc
pháp
quyền
và
làm
ảnh
hưởng
nghiêm
trọng
đến
sự
ổn
định
của
toàn
bộ
nền
kinh
tế;
“TNV”
hay
“tham
nhũng
nhỏ”
là
tham
nhũng
liên
quan
đến
việc
đổi
chác
một
số
tiền
hay
lợi
ích
để
có
những
ưu
đãi
nhỏ,
thông
thường
ở
cấp
cơ
sở.
Do
vậy,
TNV
tuy
có
ảnh
hưởng
đến
chức
năng,
hoạt
động
của
nhà
nước
nói
chung,
song
chưa
đủ
tác
động
phá
vỡ
các
khuôn
khổ
xã
hội
và
thể
chế
quản
lý
đã
được
thiết
lập
[6].
2.
Tác
động
tiêu
cực
của
tham
nhũng
vặt
Tham
nhũng
là
hệ
quả
của
nền
quản
trị
kém,
thiếu
minh
bạch
và
trách
nhiệm.
Tham
nhũng
làm
giảm
nguồn
đầu
tư,
cản
trở
tăng
trưởng
kinh
tế
và
phát
triển
con
người,
đồng
thời
gia
tăng
tỷ
lệ
đói
nghèo,
làm
suy
yếu
bộ
máy
nhà
nước,
tạo
ra
một
xã
hội
thiếu
công
bằng
[7].
TNV
được
xem
là
tham
nhũng
ở
quy
mô
nhỏ,
liên
quan
đến
hành
vi
lạm
dụng
quyền
lực
của
công
chức
ở
cấp
cơ
sở
và
cấp
trung
[8].
Tuy
nhiên,
với
tần
suất
thường
xuyên,
những
hậu
quả
về
tài
chính
và
xã
hội
của
nó
có
thể
rất
đáng
kể.
Thứ
nhất,
mặc
dù
số
tiền
hối
lộ
trong
TNV
không
lớn
nhưng
vẫn
có
thể
là
con
số
đáng
kể
đối
với
cá
nhân
và
các
hộ
gia
đình,
đặc
biệt
là
người
nghèo.
Theo
ước
tính,
trong
đó
có
ước
tính
được
xác
định
bởi
Công
cụ
đo
lường
tham
nhũng
toàn
cầu
(Global
Corruption
Barometer
-
GCB)
của
Tổ
chức
minh
bạch
quốc
tế,
minh
bạch,
TNV
có
thể
gây
ảnh
hưởng
đến
một
phần
tư
dân
số
thế
giới,
tương
đương
gần
hai
tỷ
người
[9].
Chỉ
riêng
tại
khu
vực
châu
Á
Thái
Bình
Dương,
dữ
liệu
GCB
năm
2017
cho
thấy,
gần
900
triệu
người
thừa
nhận
đã
chấp
nhận
đưa
hối
lộ
để
tiếp
cận
các
dịch
vụ
công
cộng,
trong
đó
có
các
dịch
vụ
về
chăm
sóc
sức
khoẻ.
Tham
nhũng
xảy
ra
khi
tiếp
cận
các
dịch
vụ
chăm
sóc
sức
khoẻ
được
cho
là
gây
hậu
quả
nghiêm
trọng
hơn
do
ảnh
hưởng
đến
tình
trạng
sức
khoẻ
của
công
dân.
Theo
một
nghiên
cứu
được
tiến
hành
ở
châu
Phi
vào
năm
2015
cho
thấy,
tham
nhũng
là
lý
do
khiến
nhiều
bệnh
nhân
trì
hoãn
việc
khám
sức
khoẻ,
khiến
nhiều
bệnh,
đặc
biệt
là
ung
thư,
không
được
chẩn
đoán
kịp
thời
để
có
thể
tiến
hành
điều
trị
từ
những
giai
đoạn
đầu
(Mostert
et
al.
2015).
[10]
Mặc
dù
số
tiền
hối
lộ
là
nhỏ
nhưng
nếu
được
lặp
đi
lặp
lại
với
tần
suất
cao
sẽ
trở
con
số
đáng
kể
khi
tổng
hợp
trên
quy
mô
quốc
gia
hoặc
toàn
cầu.
Hơn
nữa,
vì
TNV
thường
xảy
ra
tại
nơi
cung
cấp
dịch
vụ
nên
nó
ảnh
hưởng
trực
tiếp
đến
việc
tiếp
cận
các
dịch
vụ
công
cộng
và
từ
đó
làm
giảm
tiêu
chuẩn
sống
của
người
dân,
đặc
biệt
là
những
người
nghèo,
sống
lệ
thuộc
vào
các
dịch
vụ
công
và
an
sinh
xã
hội.
Những
khoản
chi
phí
hối
lộ
sẽ
chiếm
một
phần
lớn
tỷ
trọng
thu
nhập,
thậm
chí
là
có
thể
cao
hơn
thu
nhập
của
họ.
Theo
một
điều
tra
được
tiến
hành
tại
Mexico,
ước
tính
các
hộ
gia
đình
Mexico
có
thu
nhập
thấp
nhất
đã
chi
tới
30%
thu
nhập
hàng
tháng
của
họ
cho
việc
hối
lộ,
trong
khi
các
hộ
gia
đình
Mexico
có
thu
nhập
trung
bình
chỉ
chi
14%
cho
việc
này
[11].
Tương
tự,
TNV
cũng
có
những
tác
động
bất
lợi
đến
tăng
trưởng
kinh
tế
và
hoạt
động
kinh
doanh.
Mặc
dù
một
số
chuyên
gia
đưa
ra
lập
luận
rằng
những
khoản
hối
lộ
nhỏ
có
thể
giúp
“bôi
trơn”
các
quy
trình
hành
chính
và
giảm
chi
phí
giao
dịch
trong
các
khu
vực
được
cho
là
nhạy
cảm
cũng
như
các
yêu
cầu
mang
tính
chất
quan
liêu,
rườm
rà;
phần
lớn
các
chuyên
gia
cho
rằng,
TNV
ảnh
hưởng
đến
tài
chính
cũng
như
danh
tiếng
của
các
doanh
nghiệp,
và
nếu
xảy
ra
trong
thời
gian
dài
sẽ
tác
động
tiêu
cực
đến
sự
tăng
trưởng
và
năng
suất
của
doanh
nghiệp
[12].
Những
số
liệu
thu
được
từ
điều
tra
tại
châu
Phi
cho
thấy,
tổng
chi
phí
dành
cho
việc
hối
lộ
“vặt”
của
các
công
ty
được
hỏi
có
thể
lên
đến
2,5
-
4,5%
doanh
thu
của
họ,
tương
đương
20%
chi
phí
cho
lao
động
đối
với
các
công
ty
sản
xuất
ở
quy
mô
trung
bình,
vượt
mức
chi
phí
dành
cho
liên
lạc
(điện
thoại,
fax,
internet)
và
chi
phí
vận
chuyển
(không
bao
gồm
nhiên
liệu)
[13].
Một
cuộc
khảo
sát
khác
được
tiến
hành
bởi
Pricewaterhouse
Coopers
năm
2008
với
390
giám
đốc
điều
hành
cấp
cao
ở
14
quốc
gia
đã
cho
thấy,
những
công
ty
chấp
nhận
đưa
các
khoản
hối
lộ
với
số
tiền
lớn
đều
phải
đối
mặt
với
nguy
cơ
suy
giảm
về
thị
trường,
thiệt
hại
danh
tiếng
và
rủi
ro
pháp
lý.
Thực
tế
đã
chứng
minh,
hối
lộ
không
phải
là
chiến
lược
hiệu
quả
và
dài
hạn
cho
việc
giảm
thiểu
các
thủ
tục
hành
chính
quan
liêu,
rườm
rà.
Thậm
chí,
một
số
nghiên
cứu
còn
cho
thấy
rằng,
TNV
khiến
cho
các
doanh
nghiệp
mất
nhiều
thời
gian
hơn
khi
thực
hiện
các
thủ
tục
hành
chính,
do
dành
nhiều
thời
gian
hơn
để
đàm
phán
với
các
quan
chức
tham
nhũng
và
phải
đưa
tiền
hối
lộ
trước
khi
đạt
được
mục
tiêu.
Thêm
vào
đó,
các
khoản
chi
phí
dành
cho
việc
hối
lộ
có
thể
cao
hơn
nhiều
so
với
dự
tính.
Như
vậy,
có
thể
thấy
rằng,
chấp
nhận
TNV
bằng
cách
đưa
hối
lộ
sẽ
làm
suy
yếu
nội
bộ
doanh
nghiệp
thông
qua
việc
làm
suy
giảm
các
tiêu
chuẩn
đạo
đức,
hành
vi
cũng
như
cấu
trúc
quản
trị
doanh
nghiệp
[14].
Thứ
hai,
TNV
làm
suy
giảm
chất
lượng
của
môi
trường
pháp
lý
và
hiệu
quả
của
bộ
máy
nhà
nước.
TNV
có
tác
động
tiêu
cực
và
lâu
dài
đến
hiệu
quả
của
quản
trị
nhà
nước
và
tinh
thần
tuân
thủ
pháp
luật
vì
tạo
ra
động
lực
cho
các
công
chức
tạo
ra
nhiều
quy
định,
hạn
chế
và
các
thủ
tục
quan
liêu
rườm
rà
để
nhận
hối
lộ
từ
người
dân
và
doanh
nghiệp.
TNV
tạo
ra
một
vòng
luẩn
quẩn
khi
người
dân
và
doanh
nghiệp
đưa
hối
lộ
để
được
giảm
thiểu
các
thủ
tục
hành
chính
trong
khi
các
quan
chức
lại
cố
làm
cho
những
thủ
tục
đó
phức
tạp,
rườm
rà
hơn
nữa
để
nhận
hối
lộ
[15].
Thứ
ba,
TNV
làm
xói
mòn
niềm
tin
của
công
chúng
đối
với
các
thiết
chế
nhà
nước
và
nền
pháp
quyền.
TNV
ảnh
hưởng
đến
việc
tiếp
cận
dịch
vụ
công
hàng
ngày
của
người
dân,
do
đó
có
thể
làm
xói
mòn
niềm
tin
của
công
chúng
vào
các
thể
chế
nhà
nước,
các
quy
trình
dân
chủ
và
pháp
quyền.
Cuộc
khủng
hoảng
Ebola
(Ebola
crisis)
ở
Sierra
Leone
và
Liberia
năm
2014
là
một
ví
dụ.
TNV
đã
khiến
người
dân
mất
niềm
tin
sâu
sắc
vào
các
dịch
vụ
y
tế
dẫn
đến
việc
dịch
bệnh
lan
rộng
do
người
dân
không
muốn
sử
dụng
dịch
vụ
y
tế
từ
Nhà
nước
[16].
TNV
cũng
làm
suy
giảm
nền
pháp
quyền
vì
nó
dẫn
dến
việc
pháp
luật
không
được
thực
thi
một
cách
nhất
quán
và
từ
đó
làm
suy
yếu
nghiêm
trọng
các
nguyên
tắc
pháp
luật
là
nền
tảng
của
pháp
quyền
[17].
Thứ
tư, TNV
ảnh
hưởng
tiêu
cực
đến
nguồn
thu
của
Nhà
nước
từ
việc
thu
thuế.
TNV
có
thể
gây
ảnh
hưởng
đến
sự
tiến
bộ
của
hệ
thống
thuế
vì
nó
tạo
điều
kiện
cho
nhiều
sai
phạm
về
thuế,
trong
đó
có
hành
vi
trốn
thuế.
Từ
đó,
góp
phần
tạo
nên
một
hệ
thống
thuế
thiên
vị
cho
những
người
giàu
và
ảnh
hưởng
tiêu
cực
đến
việc
phân
phối
lại
thu
nhập
[18].
Bên
cạnh
đó,
TNV
còn
tác
động
tiêu
cực
đến
thái
độ
tuân
thủ
đối
với
quy
định
về
nộp
thuế
của
công
dân,
từ
đó
suy
giảm
niềm
tin
của
người
dân
đối
với
hệ
thống
pháp
luật
quốc
gia
[19].
3.
Phòng,
chống
tham
nhũng
vặt
–
những
kinh
nghiệm
gợi
mở
cho
Việt
Nam
Theo
nghiên
cứu
của
Ngân
hàng
thế
giới,
Georgia
từng
được
coi
là
một
ví
dụ
điển
hình
về
phòng,
chống,
loại
trừ
TNV
bằng
cách
sử
dụng
phương
pháp
tiếp
cận
trực
diện
được
hỗ
trợ
bởi
một
ý
chí
chính
trị
mạnh
mẽ.
Sau
năm
2003,
Georgia
được
cho
là
đã
thành
công
trong
việc
xoá
bỏ
TNV
trong
một
khoảng
thời
gian
tương
đối
nhanh
chóng
thông
qua
việc
sử
dụng
kết
hợp
các
biện
pháp
phòng,
chống
tham
nhũng,
bao
gồm
điều
tra
và
truy
tố
các
quan
chức
cấp
cao,
cải
cách
ngành
cảnh
sát,
xây
dựng
môi
trường
kinh
doanh
tự
do,
đơn
giản
hóa
thủ
tục
hành
chính
và
cải
cách
khu
vực
công.
Những
nỗ
lực
từ
Chính
phủ
nước
này
đã
nhanh
chóng
thu
được
niềm
tin
từ
dân
chúng
vào
khả
năng
phòng,
chống
tham
nhũng
của
Nhà
nước.
Trong
cuộc
điều
tra
nhận
thức
về
tham
nhũng
có
sử
dụng
GCB
(Global
Corruption
Barometer)
năm
2004,
60%
người
dân
Georgia
tin
tưởng
hiện
tượng
tham
nhũng
sẽ
tiếp
tục
giảm
trong
ba
năm
tiếp
theo
[20].
Từ
thành
công
của
Georgia,
Ngân
hàng
Thế
giới
đã
rút
ra
một
số
bài
học
kinh
nghiệm
về
phòng,
chống
TNV
như
sau:
(i)
Chính
phủ
cần
ưu
tiên
các
biện
pháp
tập
trung
vào
việc
giải
quyết
nạn
tham
nhũng
khi
người
dân
tiếp
cận
những
dịch
vụ
công
cộng
cơ
bản,
hàng
ngày;
(ii)
Nhà
nước
cần
thể
hiện
ý
chí
chính
trị
mạnh
mẽ
trong
việc
phòng,
chống
tham
nhũng
nói
chung,
TNV
nói
riêng;
(iii)
Chính
phủ
phải
tạo
dựng
uy
tín
bằng
cách
ngay
lập
tức
áp
dụng
chính
sách
không
khoan
nhượng
đối
với
tham
nhũng
và
cho
thấy
kết
quả
một
cách
nhanh
chóng
và
rõ
ràng;
(iv)
Chính
phủ
cần
chủ
trương
tấn
công
trực
diện
đối
với
mọi
dạng
tham
nhũng,
trong
đó
chú
trọng
thực
hiện
cải
cách
sâu
rộng
hơn
là
các
biện
pháp
chống
tham
nhũng
từng
phần;
(v)
Nhà
nước
cần
chủ
động
khắc
phục
tình
trạng
thiếu
nhân
viên
có
năng
lực
bằng
cách
thu
hút
các
nhân
viên
có
trình
độ
từ
bên
ngoài,
đặc
biệt
là
những
người
có
kinh
nghiệm
trong
khu
vực
tư
nhân;
(vi)
Nhà
nước
thực
hiện
tự
do
hoá
nền
kinh
tế,
đơn
giản
hoá
các
quy
định
của
pháp
luật
có
liên
quan
và
giảm
tải
thủ
tục
hành
chính
[21].
Tham
nhũng
nói
chung,
TNV
nói
riêng
luôn
được
coi
là
vấn
nạn
của
các
quốc
gia,
đặc
biệt
là
các
quốc
gia
đang
phát
triển,
trong
đó
có
Việt
Nam.
Theo
điều
tra
của
Tổ
chức
Minh
bạch
Quốc
tế
tại
một
số
quốc
gia,
trong
đó
có
Việt
Nam,
65%
người
được
hỏi
cho
biết
đã
hối
lộ
để
tiếp
cận
các
dịch
vụ
công
cộng.
Việt
Nam
cũng
là
quốc
gia
có
tỷ
lệ
đưa
hối
lộ
cao
trong
số
các
quốc
gia
được
khảo
sát
khi
được
hỏi
về
quá
trình
tiếp
cận
dịch
vụ
giáo
dục
(trường
công
lập)
(57%)
và
chăm
sóc
sức
khỏe
(59%)
[22].
Như
đã
phân
tích,
TNV
không
gây
những
hậu
quả
lớn,
ngay
lập
tức
về
mặt
kinh
tế,
xã
hội,
chính
trị,
tuy
nhiên
lại
có
tác
động
tiêu
cực
đến
cuộc
sống
của
người
dân
và
từ
đó
làm
suy
giảm
niềm
tin
của
người
dân
vào
Nhà
nước
cũng
như
hệ
thống
pháp
luật
quốc
gia.
Từ
kinh
nghiệm
quốc
tế,
nhiều
nhóm
giải
pháp
sau
được
nghiên
cứu
và
đánh
giá
là
hiệu
quả,
có
thể
áp
dụng
ở
những
quốc
gia
mà
TNV
vẫn
được
coi
là
một
vấn
nạn,
trong
đó
có
Việt
Nam,
cụ
thể:
(1)
Nhóm
các
giải
pháp
liên
quan
đến
việc
giảm
tải
các
thủ
tục,
gánh
nặng
về
hành
chính
Đơn
giản
hoá
các
thủ
tục
hành
chính
được
coi
là
yếu
tố
quan
trọng
trong
chiến
lược
chống
TNV
vì
chính
các
thủ
tục,
quy
trình
hành
chính
quan
liêu,
rườm
rà
sẽ
tạo
ra
cả
động
cơ
và
cơ
hội
cho
hành
vi
hối
lộ.
Một
số
công
cụ
và
phương
pháp
tiếp
cận
mà
Georgia
đã
sử
dụng
thành
công
trong
việc
minh
bạch
hoá
và
đơn
giản
hoá
các
thủ
tục
hành
chính
bao
gồm
[23].
(i)
Tái
cấu
trúc
quy
trình
(Process
re-engineering):
nhằm
mục
đích
giảm
số
lượng
yêu
cầu
của
Chính
phủ
và
tạo
điều
kiện
tuân
thủ
thông
qua
tái
thiết
kế,
loại
bỏ
các
bước
dư
thừa
và
sử
dụng
công
nghệ,
bao
gồm
xây
dựng
quy
định
của
pháp
luật,
thủ
tục
một
cách
hài
hoà;
đơn
giản
hóa
các
yêu
cầu
về
tài
liệu
và
thiết
lập
giới
hạn
về
thời
gian
dựa
trên
nguyên
tắc
“im
lặng
là
đồng
ý”(“silence
is
consent”).
(ii)
Thực
hiện
chính
sách
“một
cửa”
(“One-stop-shop”):
nhằm
cung
cấp
các
hướng
dẫn
dễ
thực
hiện,
nhanh
chóng
và
minh
bạch
cho
người
dân
và
các
doanh
nghiệp,
một
cơ
quan
hành
chính
có
thể
cung
cấp
tích
hợp
nhiều
hơn
một
dịch
vụ
công,
bao
gồm
đăng
ký
kinh
doanh,
thủ
tục
hậu
đăng
ký
với
cơ
quan
thuế,
cấp
giấy
phép,
tài
liệu,…
và
đặc
biệt
cần
tránh
trường
hợp
“một
cửa”
nhưng
có
“nhiều
bàn”.
(iii)
Chia
sẻ
và
tiêu
chuẩn
hóa
dữ
liệu:
nhằm
tiết
kiệm
thời
gian
và
gánh
nặng
về
thủ
tục
hành
chính
cho
các
doanh
nghiệp,
đặc
biệt
là
trong
trường
hợp
các
doanh
nghiệp
có
thể
bị
yêu
cầu
nộp
cùng
một
tài
liệu
cho
các
cơ
quan
chính
phủ
khác
nhau
ở
các
định
dạng
khác
nhau.
(iv)
Xây
dựng
chính
phủ
điện
tử:
nhằm
giúp
giảm
bớt
gánh
nặng
hành
chính
cho
người
dân
và
doanh
nghiệp,
tạo
điều
kiện
cho
các
biện
pháp
đơn
giản
hóa
thủ
hành
chính
nêu
trên,
như
sử
dụng
báo
cáo
điện
tử
để
khai
thuế,
chia
sẻ
dữ
liệu
giữa
các
cơ
quan
hành
chính
một
cửa.
(v)
Kiểm
soát
lường
trước
(Ex-ante
controls):
nhằm
đánh
giá
tác
động
của
các
quy
định
mới
trước
khi
chúng
được
thông
qua,
từ
đó
góp
phần
giảm
thiểu
gánh
nặng
hành
chính
do
các
quy
định
này
có
thể
gây
ra
cũng
như
đảm
bảo
các
quy
định
này
minh
bạch.
(vi)
Đảm
bảo
sự
tham
gia
của
các
bên
liên
quan
(Stakeholders
engagement):
người
dân
với
tư
cách
là
những
chủ
thể
sử
dụng
dịch
vụ
công
có
quyền
đưa
ra
các
tham
vấn
trong
cải
cách
hành
chính
nhằm
bảo
đảm
những
cuộc
cải
cách
được
tiến
hành
phù
hợp
với
mục
tiêu
được
đề
ra.
(2)
Nhóm
các
giải
pháp
hướng
đến
đội
ngũ
cán
bộ,
công
chức
Thứ
nhất,
tăng
lương
cho
cán
bộ
công
chức.
Một
trong
những
nguyên
nhân
của
TNV
là
do
công
chức
được
trả
mức
lương
thấp
và
được
cho
là
dưới
mức
sống.
Mức
lương
thấp
đối
với
công
chức
tạo
ra
động
lực
cho
tham
nhũng
cũng
như
có
khả
năng
làm
giảm
hiệu
quả
và
năng
suất
hoạt
động
của
khu
vực
công.
Tuy
nhiên,
đây
không
phải
là
lý
do
duy
nhất.
Hầu
hết
các
nghiên
cứu
cho
rằng,
việc
tăng
lương
mà
không
thiết
lập
hệ
thống
kiểm
soát
và
giám
sát
hiệu
quả
cũng
như
thực
thi
các
biện
pháp
trừng
phạt
thích
hợp
thì
khó
có
thể
có
tác
động
bền
vững
đến
việc
loại
trừ
TNV
[24].
Thứ
hai,
xây
dựng
bộ
quy
tắc
ứng
xử
đối
với
công
chức
có
thẩm
quyền
trong
việc
cung
cấp
dịch
vụ
công.
Xây
dựng
bộ
quy
tắc
ứng
xử
dành
cho
công
chức
nhà
nước
nói
chung
và
công
chức
tham
gia
vào
hoạt
động
cung
cấp
dịch
vụ
công
nói
riêng
không
chỉ
có
tác
dụng
cải
thiện
thái
độ
làm
việc
của
công
chức
(tính
kỷ
luật,
đúng
giờ,…)
mà
còn
thúc
đẩy
một
nền
hành
chính
công
liêm
chính,
minh
bạch.
Ngoài
ra,
cần
có
những
biện
pháp
nâng
cao,
đổi
mới
nhận
thức
đối
với
đội
ngũ
công
chức
trong
hoạt
động
cung
cấp
dịch
vụ
công
theo
hướng
xác
định
nguyên
tắc
“hướng
tới
khách
hàng”
là
nguyên
tắc
cốt
lõi
của
việc
thực
hiện
dịch
vụ
công;
cần
tiếp
tục
rà
soát,
cải
cách
thủ
tục
hành
chính,
tạo
môi
trường
thuận
lợi
bình
đẳng
cho
người
sử
dụng
dịch
vụ;
thủ
tục,
quy
trình,
các
loại
giấy
tờ
cần
được
công
khai
và
đảm
bảo
người
dân
có
thể
tiếp
cận
được.
Ngoài
ra,
cần
đảm
bảo
quyền
khiếu
nại
của
công
dân
khi
phát
hiện
ra
sai
phạm
trong
hoạt
động
cung
cấp
dịch
vụ
công
[25].
(3)
Nhóm
các
giải
pháp
sử
dụng
công
nghệ
thông
tin
để
phòng,
chống
TNV
Trong
thời
đại
4.0,
công
nghệ
thông
tin
trở
thành
công
cụ
hữu
hiệu
trong
đời
sống
hành
chính
của
mỗi
quốc
gia
trên
nhiều
lĩnh
vực,
trong
đó
có
phòng,
chống
tham
nhũng.
Những
công
cụ
như
dịch
vụ
công
kỹ
thuật
số,
nền
tảng
đám
đông,
các
công
cụ
báo
hiệu,
cổng
thông
tin
minh
bạch,
cơ
sở
dữ
liệu
lớn
có
thể
góp
phần
đẩy
lùi
TNV
thông
qua
việc
thúc
đẩy
sự
giám
sát
của
công
chúng,
đảm
bảo
tính
minh
bạch
và
trách
nhiệm
giải
trình,
tạo
điều
kiện
cho
sự
tham
gia
của
người
dân,
thúc
đẩy
tương
tác
giữa
người
dân
và
Chính
phủ.
Những
công
cụ
được
đánh
giá
là
có
hiệu
quả
bao
gồm:
(i)
Chính
phủ
điện
tử:
việc
số
hóa
các
dịch
vụ
công
có
thể
góp
phần
chống
tham
nhũng
thông
qua
việc
giảm
bớt
sự
tùy
tiện
của
các
công
chức
nhà
nước,
tăng
tính
minh
bạch
và
đơn
giản
hóa
các
quy
trình
hành
chính.
Bên
cạnh
đó,
việc
hạn
tiếp
xúc
trực
diện
giữa
người
sử
dụng
dịch
vụ
và
nhà
cung
cấp
dịch
vụ
cũng
có
thể
góp
phần
giảm
cơ
hội
đưa
và
nhận
hối
lộ.
(ii)
Ứng
dụng
phòng,
chống
tham
nhũng
trên
điện
thoại
thông
minh:
Chính
quyền
Mexico
từng
giới
thiệu
một
ứng
dụng
cho
điện
thoại
thông
minh
nhằm
giảm
tỷ
lệ
tham
nhũng
ở
cảnh
sát
giao
thông
bằng
cách
cung
cấp
hướng
dẫn
cho
người
lái
xe
khi
đối
mặt
với
các
hành
vi
nhũng
nhiễu
từ
cảnh
sát
thành
phố
Mexico.
Ứng
dụng
này
cho
phép
người
sử
dụng
tiếp
cận
các
thông
tin
cần
thiết,
bao
gồm
dữ
liệu
từ
máy
xử
phạt
vi
phạm
giao
thông
(traffic
fine
calculator)
đến
danh
sách
tất
cả
các
quy
định
giao
thông,
các
biện
pháp
chế
tài
và
số
điện
thoại
đường
dây
nóng.
Trong
ba
tháng
sau
khi
ra
mắt,
ứng
dụng
đã
được
tải
xuống
hơn
11.000
lần
[26].
(iii)
Thanh
toán
điện
tử:
các
thanh
toán
thông
qua
các
phương
tiện
kỹ
thuật
số,
trong
đó
có
điện
thoại
di
động
có
thể
dễ
dàng
truy
suất,
do
đó
tăng
tính
minh
bạch
của
các
dữ
liệu
thanh
toán
trong
việc
chi
trả
các
chi
phí
đối
với
dịch
vụ
công
như
phí
điện,
nước…
(iv)
Công
cụ
thống
kê
trực
tuyến
về
các
tội
phạm
tham
nhũng:
bên
cạnh
các
chế
tài
pháp
luật,
dư
luận
xã
hội
cũng
có
thể
là
một
công
cụ
mạnh
mẽ
để
ngăn
chặn
tham
nhũng.
Trang
điện
tử
Korupedia.org
tại
Indonesia
là
một
ví
dụ.
Trang
này
cung
cấp
một
danh
sách
trực
tuyến
các
quan
chức
bị
kết
án,
bao
gồm
tên
của
họ,
số
tiền
tham
ô
và
phán
quyết
cuối
cùng
của
phiên
tòa
[27].
Kết
luận
TNV
tuy
diễn
ra
ở
quy
mô
nhỏ
nhưng
vẫn
gây
hậu
quả
tương
tự
như
các
các
dạng
tham
nhũng
khác,
đó
là
kìm
hãm
tăng
trưởng
kinh
tế,
làm
nản
lòng
các
nhà
đầu
tư
trong
nước
và
nước
ngoài;
làm
giảm
và
thất
thoát
thu
nhập
quốc
gia;
làm
giảm
hiệu
lực
của
pháp
luật;
nuôi
dưỡng
sự
đặc
quyền
và
làm
xói
mòn
sự
liêm
chính
trong
xã
hội;
và
dẫn
đến
những
vi
phạm
về
quyền
con
người
[28].
Do
tần
suất
có
thể
xảy
hàng
ngày,
TNV
có
thể
làm
cho
những
hậu
quả
ngày
càng
trở
nên
trầm
trọng
gây
mất
niềm
tin
của
người
dân
đối
với
chính
quyền
cũng
như
hệ
thống
pháp
luật
quốc
gia.
Do
vậy,
mọi
hình
thức
tham
nhũng
dù
là
nhỏ
nhất
cần
phải
được
loại
bỏ
và
đó
là
trách
nhiệm
của
cả
Nhà
nước
và
xã
hội./.
[3] Corruption
and
Anti-Corruption
Reform
in
Central
Asia,
Duane
Windsor
(Rice
University,
USA),
2020.
[4] R.
Klitgaard,
Controlling
Corruption,
University
of
California
Press,
Berkeley,
1988,
tr.75.
[6] Khoa
Luật
–
ĐHQGHN,
Giáo
trình
Lí
luận
và
pháp
luật
về
PCTN,
NXB
ĐHQG,
2013,
tr.
25.
[7] Transparency
International,
Report,
2003.
[10] Mostert,
S.,
Njuguna
F.,
Olbara,
G.
Sindano,
S.,
Supriyadi,
E,
Corruption
in
Health-Care
Systems
and
Its
Effect
on
Cancer
Care
in
Africa,
2015,
https://www.thelancet.com/
journals/lanonc/article/PIIS1470-2045(15)00163-1/fulltext,
truy
cập
ngày
14/04/2020.
[11] Bohorquez,
E
&
Devrim,
D,
Cracking
the
Myth
of
Petty
Bribery,
2012,
https://www.cidob.org/publicaciones/serie_de_publicacion/notes_internacionals/n1_51/cracking_the_myth_of_petty_bribery.
[13] Clarke,
How
Petty
is
Petty
Corruption?
Evidence
from
Firm
Survey
in
Africa,
2008,
https://mpra.ub.uni-muenchen.de/15073/.
[14] Pricewaterhouse
Coopers,
“ConfrontingCorruption:
The
Business
Case
for
an
Effective
Anti-Corruption
Programme,
2008,
https://www.pwc.co.za/en/assets/pdf/pwcconfronting-corruption-08.pdf.
[15] Ratbek
Dzhumashev,
Corruption
and
regulatory
burden,
2008,
University
Library
of
Munich,
Germany,
MPRA
Paper.
[16] Steiner,
“Petty”
Corruption
Isn’t
Petty,
2017,
https://globalanticorruptionblog.com/2017/12/29/petty-corruption-isnt-petty/.
[18] Nawaz,
Exploring
the
Relationships
between
Corruption
and
Tax
Revenue,2010,
https://www.gov.uk/dfid-researchoutputs/exploring-the-relationships-betweencorruption-and-tax-revenue.
[20] Chêne,
Anti-corruption
Progress
in
Georgia,
Rwanda
and
Liberia,
2011,
https://www.transparency.org/files/ content/corruptionqas/HelpDesk_Anticorruption_progress_in_Rwanda_Liberia_Georgia.pdf.
[21] World
Bank,
Fighting
Corruption
in
Public
Services:
Chronicling
Georgia’s
Reform,
2012,
http://documents.worldbank.org/curated/en/518301468256183463/pdf/664490PUB0EPI0065774B09780821394755.pdf.
[22] Transparency
International,
Global
Corruption
Barometer
Asia
Pacific,
2017,
https://www.transparency.org/whatwedo/publication/people_and_corruption_asia_pacific_global_corruption_barometer.
[23] Martini,
Best
Practices
in
Reducing
Red
Tape
and
Corruption,
2012,
https://www.transparency.org/whatwedo/answer/best_practices_in_reducing_bureaucracy_and_corruption.
[24] Chêne,
Low
Salaries,
the
Culture
of
Perdiem
and
Corruption,
2009,
https://www.u4.no/publications/low-salaries-theculture-of-per-diems-and-corruption.
[25] Nguyễn
Thuỳ
Dương,
“Pháp
luật
về
dịch
vụ
công
ở
Malaysia
những
kinh
nghiệm
cho
Việt
Nam”
trong
Kỷ
yếu
hội
thảo
“Pháp
luật
về
dịch
vụ
công
trên
thế
giới
và
ở
Việt
Nam”,
Khoa
Luật
–
ĐHQGHN,
tháng
03/2019,
tr.151.
[26] Chêne,
What
Can
Donors
Do
to
Fight
Petty
Corruption
in
Recipient
Countries?,
2014.
[28] UNDP
Discussion
Paper:
Corruption
and
Good
Governance,
http://magnet.undp.org/Docs/efa/corruption3/corruption3.htm.