Nỗ
lực
PCTN
của
Việt
Nam
đã
được
cộng
đồng
quốc
tế
ghi
nhận
trong
khuôn
khổ
thực
thi
Công
ước
Liên
hợp
quốc
(LHQ)
về
chống
tham
nhũng
cũng
như
các
diễn
đàn
quốc
tế
song
phương
và
đa
phương
khác.
Các
quy
định
của
Luật
PCTN
đã
giúp
tạo
ra
môi
trường
thể
chế
ngày
càng
công
khai,
minh
bạch;
từng
bước
tăng
cường
sự
tham
gia
của
người
dân
trong
PCTN.
Cơ
chế
kiểm
soát
đối
với
cán
bộ,
công
chức,
viên
chức
và
chế
độ
công
vụ
ngày
càng
được
cải
thiện;
việc
xử
lý
người
có
hành
vi
tham
nhũng
và
tài
sản
tham
nhũng
cũng
được
chú
trọng
và
nâng
cao
hiệu
quả;
bộ
máy
cơ
quan
PCTN
bước
đầu
được
củng
cố,
kiện
toàn.
Nỗ
lực
của
Chính
phủ
trong
hoàn
thiện
thể
chế
về
PCTN
là
thành
tích
đáng
ghi
nhận
trong
thời
gian
qua,
với
hàng
chục
văn
bản
quy
phạm
pháp
luật
trực
tiếp
và
gián
tiếp
quy
định
về
PCTN
đã
được
ban
hành
và
phát
huy
tác
dụng
trong
thực
tiễn.
Tuy
nhiên,
“tình
hình
tham
nhũng
vẫn
diễn
biến
phức
tạp,
công
tác
phát
hiện,
xử
lý
tham
nhũng
chưa
đáp
ứng
yêu
cầu,
số
vụ
việc,
vụ
án
tham
nhũng
được
phát
hiện
còn
ít,
một
số
vụ
việc
xử
lý
còn
kéo
dài,
chưa
nghiêm,
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
đạt
kết
quả
thấp,
gây
tâm
lý
bức
xúc
và
hoài
nghi
trong
xã
hội
về
quyết
tâm
PCTN
của
Đảng
và
Nhà
nước
ta”
[1].
Các
báo
cáo,
khảo
sát
của
Thanh
tra
Chính
phủ,
Ngân
hàng
Thế
giới,
các
tổ
chức
quốc
tế
và
các
nghiên
cứu
độc
lập
cho
thấy,
tình
trạng
trên
do
nhiều
nguyên
nhân,
trong
đó,
những
bất
cập
của
Luật
PCTN
là
nguyên
nhân
quan
trọng
nhất
[2].
Cụ
thể,
qua
10
năm
thi
hành,
Luật
PCTN
đã
bộc
lộ
một
số
bất
cập
chính
như
sau:
1.
Về
khái
niệm
tham
nhũng
và
phạm
vi
điều
chỉnh
của
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
Để
PCTN
hiệu
quả,
mỗi
quốc
gia
phải
hoàn
thiện
thể
chế
PCTN,
mà
trước
tiên
là
phải
nhận
thức
đúng
về
tham
nhũng. Công
ước
của
LHQ về chống
tham
nhũng không
đưa
ra
định
nghĩa
về
tham
nhũng
mà
chỉ
có
một
số
điều
khoản
mô
tả
các
hành
vi
tham
nhũng
như
hối
lộ,
tham
ô,
biển
thủ
công
quỹ
hoặc
hành
vi
của
công
chức
lợi
dụng
chức
vụ
quyền
hạn
chiếm
đoạt
tài
sản,
lợi
dụng
ảnh
hưởng
để
trục
lợi…
Tuy
nhiên,
những
quy
định
cụ
thể
này
cho
thấy
cách
tiếp
cận
của
Công
ước
về
tham
nhũng
như
sau:
(i)
về
chủ
thể: là
cá
nhân
hoặc
pháp
nhân;
cá
nhân
gồm
cán
bộ,
công
chức
nhà
nước,
công
chức
nước
ngoài,
công
chức
của
tổ
chức
quốc
tế
công,
người
không
phải
là
cán
bộ,
công
chức;
các
pháp
nhân
gồm
ở
cả
hai
khu
vực
công
và
tư
;
(ii)
về
phạm
vi: tham
nhũng
xảy
ra
trong
khu
vực
nhà
nước
và
khu
vực
ngoài
nhà
nước;
(iii)
về
của
hối
lộ:bao
gồm
các
giá
trị
vật
chất
và
phi
vật
chất;
(iv)
về
hành
vi: gồm
nhận
hối
lộ,
đưa
hối
lộ
hoặc
hành
vi
hứa
hẹn,
chào
mời,
cho
công
chức
một
lợi
ích
không
chính
đáng
hoặc
hành
vi
công
chức
đòi
một
lợi
ích
không
chính
đáng để
công
chức
này
làm
hoặc
không
làm
một
việc
trong
quá
trình
thi
hành
công
vụ.
Tại
Việt
Nam,
khái
niệm
“tham
nhũng”
được
hiểu
là:
“hành
vi
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
đã
lợi
dụng
chức
vụ,
quyền
hạn
đó
vì
vụ
lợi”
[3].
Khái
niệm
này
không
có
sự
thay
đổi
sau
các
lần
sửa
đổi,
bổ
sung
Luật
PCTN.
Đến
thời
điểm
này, hành
vi
tham
nhũng theo
Luật
PCTN có
các
đặc
điểm
sau:
Về
mặt
chủ
thể, tham
nhũng
phải
là
hành
vi
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn. Chứcvụ
quyền
hạn này có
được
do
bầu
cử,
bổ
nhiệm,
hợp
đồng và
phải gắn
với
quyền
lực
nhà
nước/khu
vực
công
như
các cơ
quan
lập
pháp,
hành
pháp,
tư
pháp hoặctrong
các
tổ
chức
chính
trị,
tổ
chức
chính trị,
xã
hội
-
tổ
chức
xã
hội
nghề
nghiệp,
các
tổ
chức
kinh
tế nhà
nước
hoặc
lực
lượng
vũ
trang
từ
trung
ương
đến
địa
phương
[4];
Về
mặt
khách
quan, người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
đã
lợi
dụng
chức
vụ,
quyền
hạn
của
mình
để
mưu
lợi
cá
nhân;
Về
mặt
chủ
quan,
động
cơ
của
người
có
hành
vi
tham
nhũng
là
vụ
lợi[5]. Hành
vi
của
họ
không
xuất
phát
từ
nhu
cầu
công
việc
hay
trách
nhiệm
của
người
cán
bộ,
công
chức
mà
vì
lợi
ích
cá
nhân.
Cách
tiếp
cận
về
tham
nhũng
như
trên
còn
được
thể
hiện
trong
Bộ
luật
Hình
sự
(BLHS)
năm
1999
(sửa
đổi
năm
2009).
Theo
đó,
BLHS
năm
1999
quy
định:
tội
phạm
tham
nhũng
chỉ
có
trong
khu
vực
công,
không
có
ở
khu
vực
tư.
Điều
này
đồng
nghĩa
với
việc
chủ
thể
của
hành
vi
tham
nhũng
chỉ
có
thể
là
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
trong
bộ
máy
nhà
nước;
đưa
hối
lộ
không
được
quy
định
là
hành
vi
tham
nhũng;
của
hối
lộ
chỉ
là
những
gì
có
giá
trị
vật
chất.
Đây
là
điểm
khác
biệt
của
pháp
luật
Việt
Nam
so
với
Công
ước
của
LHQ
về
Chống
tham
nhũng,
bởi
Điều
21
của
Công
ước
đã
quy
định
hành
vi
“Hối
lộ
trong
khu
vực
tư”
[6] và Điều
22
quy
định
hành
vi “Biển
thủ
tài
sản
trong
khu
vực
tư”
[7].
Những
năm
gần
đây,
các
pháp
nhân,
cá
nhân
khu
vực
tư
đã
không
ngừng
lớn
mạnh,
đóng
góp
tích
cực
vào
sự
phát
triển
kinh
tế,
xã
hội
với
việc
tham
gia
ngày
càng
nhiều
vào
các
dịch
vụ
công
như
đào
tạo
nhân
lực,
khám
chữa
bệnh,
công
chứng
(tư),
giám
sát,
giám
định,
phiên
dịch,
cung
ứng
cho
mua
sắm
công…
Không
ít
cá
nhân,
pháp
nhân
thuộc
khu
vực
tư
nhận
tiền,
tài
sản
để
làm
những
việc
trái
pháp
luật. Phản
ứng
trước
thực
tế
đó,
BLHS
năm
2015
có
hiệu
lực
từ
ngày
01/7/2016,
mặc
dù về
cơ
bản
vẫn
giữ
nguyên
khái
niệm
tội
phạm
về
chức
vụ và
người
có
chức
vụ
quyền
hạn
như
trong
BLHS năm 1999
[8],
nhưng đã
bước
đầu
mở
rộng
khái
niệm
sang
khu
vực
tư;
xác
định
chủ
thể
của
hành
vi
hối
lộ
bao
gồm
cả
công
chức
làm
việc
trong
các
tổ
chức
quốc
tế;
của
hối
lộ
được
xác
định
bao
gồm
cả
những
giá
trị
phi
vật
chất. Cụ
thể,
khoản
6
Điều
353
về
tội
tham
ô
tài
sản
quy
định: “Người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
trong
các
doanh
nghiệp,
tổ
chức
ngoài nhà
nước
mà
tham
ô
tài
sản,
thì
bị
xử
lý
theo
quy
định
tại
Điều
này”;
khoản
6
Điều
354
về
tội
nhận
hối
lộ
quy
định: “Người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
trong
các
doanh
nghiệp,
tổ
chức
ngoài nhà
nước
mà
nhận
hối
lộ,
thì
bị
xử
lý
theo
quy
định
tại
Điều
này”;
khoản
6
Điều
364 về
tội
đưa
hối
lộ
quy
định: “Người
nào
đưa
hoặc
sẽ
đưa
hối
lộ
cho
công
chức
nước
ngoài,
công
chức
của
tổ
chức
quốc
tế
công,
người
có
chức
vụ
trong
các
doanh
nghiệp,
tổ
chức
ngoài nhà
nước
cũng
bị
xử
lý
theo
quy
định
tại
Điều
này”; khoản
7
Điều
366
về
tội
môi
giới
hối
lộ
quy
định: “Người
nào
môi
giới
hối
lộ
trong
các
doanh
nghiệp,
tổ
chức
ngoài nhà
nước
cũng
bị
xử
lý
theo
quy
định
tại
Điều
này”.
Ngoài
ra,
khái
niệm
của
hối
lộ trong
nhóm
các
tội
phạm
về
chức
vụ
trong
BLHS năm 2015
cũng
được
mở
rộng
để
bao
gồm
cả
các
giá
trị
phi
vật
chất
(xem
các
Điều
354,
364
và
366
BLHS
năm
2015).
Như
vậy,
về
khái
niệm
tham
nhũng,
BLHS
năm
2015
đã
tiếp
cận
gần
hơn
với
các
chuẩn
mực
của
Công
ước
LHQ
về
Chống
tham
nhũng
trên
cả
ba
tiêu
chí:
(i)
mở
rộng
khái
niệm
tham
nhũng
sang
lĩnh
vực
tư;
(ii)
mở
rộng
chủ
thể
của
tội
nhận
hối
lộ
bao
gồm
cả
công
chức
nước
ngoài,
công
chức
của
tổ
chức
quốc
tế
công;
(iii)
mở
rộng
khái
niệm
của
hối
lộ
bao
gồm
cả
các
giá
trị
phi
vật
chất.
Sự
thay
đổi
của
BLHS
năm
2015
đặt
ra
yêu
cầu
phải
hoàn
thiện
Luật
PCTN
hiện
hành
theo
hướng
tiếp
cận
mở
để
đảm
bảo
tính
thống
nhất
của
hệ
thống
pháp
luật
và
phù
hợp
hơn
với
cách
tiếp
cận
của
Công
ước.
2. Phòng
ngừa
tham
nhũng
trong
khu
vực
công
Chương
II
Luật
PCTN
hiện
hành
quy
định
07
nhóm
biện
pháp
phòng
ngừa
tham
nhũng,
gồm:
công
khai,
minh
bạch
trong
hoạt
động
của
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị;
việc
xây
dựng,
thực
hiện
chế
độ,
định
mức,
tiêu
chuẩn;
xây
dựng,
thực
hiện
quy
tắc
ứng
xử,
quy
tắc
đạo
đức
nghề
nghiệp
của
cán
bộ,
công
chức,
viên
chức; chuyển
đổi
vị
trí
công
tác;
minh
bạch
tài
sản,
thu
nhập;
xử
lý
trách
nhiệm
của
người
đứng
đầu
khi
để
xảy
ra
tham
nhũng;
cải
cách
hành
chính,
đổi
mới
công
nghệ
quản
lý
và
phương
thức
thanh
toán.
Thực
chất
đây
là
các
tư
tưởng
về
phòng
ngừa
tham
nhũng
gắn
với
quản
trị
tốt
được
tổng
hợp
từ
Công
ước
của
LHQ
về
Chống
tham
nhũng
và
kinh
nghiệm
của
các
quốc
gia
khác.
Chế
định
về
phòng
ngừa
tham
nhũng
là
bước
tiến
mới
về
chất
của
Luật
PCTN
năm
2005.
Tuy
nhiên,
các
biện
pháp
phòng
ngừa
được
quy
định
tại
Chương
II
Luật
PCTN
không
thể
áp
dụng
trực
tiếp
cho
một
nhóm
chủ
thể
hay
cho
lĩnh
vực/trường
hợp
cụ
thể
nào
đó.
Nghĩa
là
các
quy
định
này
hiện
chỉ
mang
tính
tuyên
ngôn
về
nguyên
tắc/quan
điểm
chung,
thiếu
cụ
thể.
Các
chủ
thể
thuộc
khu
vực
công
hiện
chưa
thể
áp
dụng
trực
tiếp
các
quy
định
trên
nhằm
phòng
ngừa
tham
nhũng.
Chẳng
hạn,
quy
định
về
công
khai,
minh
bạch
sẽ
phải
được
thể
hiện
cụ
thể
thành
quy
trình
trong
pháp
luật
về
đấu
thầu,
mua
sắm,
tuyển
dụng
và
bổ
nhiệm
cán
bộ,
công
chức,
người
lao
động,
về
kiểm
soát
tài
sản
của
cán
bộ,
công
chức,
người
lao
động
khác…
Hơn
nữa,
với
phạm
vi
điều
chỉnh
hạn
hẹp
của
Luật
PCTN,
các
chủ
thể
thuộc
khu
vực
tư
không
có
nghĩa
vụ
phải
thi
hành
chế
định
này.
Về
nội
dung,
các
quy
định
về
công
khai,
minh
bạch
còn
chưa
mang
tính
bao
quát
và
chưa
thực
chất,
đặc
biệt
là
chưa
làm
rõ
về
nguyên
tắc,
hình
thức,
nội
dung,
thời
gian
thực
hiện
công
khai,
minh
bạch
trên
cơ
sở
trả
lời
các
câu
hỏi:
Ai
phải
công
khai,
minh
bạch?
Công
khai,
minh
bạch
với
ai?
Công
khai,
minh
bạch
cái
gì?
Công
khai,
minh
bạch
như
thế
nào?
Khi
nào
công
khai,
minh
bạch?
Xử
lý
các
vi
phạm
về
công
khai,
minh
bạch
như
thế
nào?
... Các
quy
định
về
minh
bạch
tài
sản,
thu
nhập
chưa
giúp
kiểm
soát
biến
động
về
tài
sản,
thu
nhập;
còn
phức
tạp
về
trình
tự,
thủ
tục
công
khai
bản
kê
khai
và
thủ
tục
giải
trình,
xác
minh
tài
sản,
thu
nhập;
thiếu
quy
định
về
việc
xử
lý
người
và
tài
sản,
thu
nhập
không
giải
trình
được
một
cách
hợp
lý;
chưa
xác
định
được
thời
hạn
người
kê
khai
tài
sản,
thu
nhập
có
nghĩa
vụ
giải
trình
về
tài
sản,
thu
nhập.
Chế
định
về
trách
nhiệm
giải
trình
với
nội
dung
còn
hạn
hẹp,
chưa
gắn
liền
với
trách
nhiệm
chính
trị
của
người
đứng
đầu
đối
với
các
vấn
đề
phát
sinh
trong
quản
lý
nhà
nước
(theo
các
cấp
độ:
ngang,
dọc,
nội
bộ;
hoặc
cấp
trên
đối
với
cấp
dưới,
bên
trong
cơ
quan
nhà
nước
với
bên
ngoài;
hoặc
giữa
cơ
quan
hành
pháp,
cơ
quan
tư
pháp
trước
cơ
quan
lập
pháp...);
thiếu
cơ
chế
và
các
hình
thức
xử
lý
đối
với
những
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật
về
giải
trình;
trình
tự,
thủ
tục
và
nội
dung
thực
hiện
trách
nhiệm
giải
trình
chưa
rõ
ràng,
chưa
khả
thi,
chưa
gắn
với
việc
thực
hiện
các
biện
pháp
phòng
ngừa
tham
nhũng
khác.
Các
quy
định
về
xử
lý
trách
nhiệm
của
người
đứng
đầu
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị
khi
để
xảy
ra
hành
vi
tham
nhũng
trong
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị
mình
còn
thiếu
rõ
ràng,
chưa
thực
chất
và
không
khuyến
khích
được
tính
chủ
động
của
người
đứng
đầu
trong
phòng
ngừa,
phát
hiện
tham
nhũng.
Ngoài
ra,
Luật
PCTN
cũng
chưa
đề
cập
đến
các
biện
pháp
phòng
ngừa
lợi
ích
nhóm
tiêu
cực
và
tham
nhũng
chính
sách
khi
hiện
tượng
này
không
ngừng
gia
tăng
trong
quy
trình
chính
sách
công
ở
Việt
Nam,
từ
giai
đoạn
đề
xuất
ý
tưởng
chính
sách;
soạn
thảo
chính
sách
thành
dự
án
luật;
tương
tác
tại
nghị
trường
và
thông
qua
chính
sách;
thực
thi
chính
sách;
kiểm
tra,
đánh
giá
chính
sách;
sơ
kết,
tổng
kết
chính
sách
và
điều
chỉnh
chính
sách.
Trong
khu
vực
công,
xung
đột
lợi
ích
(XĐLI)
là
những
tình
huống
cụ
thể
phát
sinh
khi
cán
bộ,
công
chức,
viên
chức
có
thể
đưa
ra
quyết
định
hoặc
thực
hiện
hành
vi
có
lợi
cho
mình
trong
hoạt
động
công
vụ,
qua
đó
làm
phát
sinh
tham
nhũng.
Vì
vậy,
kiểm
soát
và
hạn
chế
các
tình
huống
phát
sinh
XĐLI
sẽ
giúp
phòng
ngừa
tham
nhũng
một
cách
hiệu
quả.
Tuy
nhiên,
Luật
PCTN
và
các
văn
bản
pháp
luật
hiện
hành
chưa
đưa
ra
một
khái
niệm
chính
thức
về
XĐLI,
kiểm
soát
XĐLI
mà
bước
đầu
chỉ
ghi
nhận
và
đưa
ra
các
biện
pháp
giải
quyết
các
tình
huống
XĐLI
cụ
thể,
liên
quan
đến
các
tình
huống
như
tặng
quà
và
nhận
quà
tặng,
quyết
định
có
lợi
cho
cá
nhân
hoặc
người
thân
của
người
ra
quyết
định,
chia
sẻ
lợi
ích
với
doanh
nghiệp
là
đối
tượng
quản
lý,
sử
dụng
lợi
thế
thông
tin
có
được
từ
vị
trí
công
tác..
. Mặt
khác,
với
các
tình
huống
XĐLI
đã
nêu,
quy
định
của
Luật
PCTN
và
các
văn
bản
pháp
luật
chưa
đồng
bộ,
thiếu
cụ
thể,
thiếu
biện
pháp
đảm
bảo
thực
thi
[9].
Trên
thực
tế,
lợi
ích
cá
nhân
mà
cán
bộ,
công
chức,
viên
chức
hướng
tới
có
thể
là
tài
sản,
các
giá
trị
vật
chất
hoặc
phi
vật
chất
trực
tiếp
mang
lại
cho
họ,
cho
vợ/chồng,
con,
gia
đình,
người
thân
của
họ;
lợi
ích
cá
nhân
có
thể
xuất
hiện
trước,
trong
hoặc
sau
khi
có
quyết
định
hoặc
hành
vi
quản
lý.
3. Xử
lý
hành
vi
tham
nhũng
và
tài
sản
tham
nhũng
Hiện
nay,
các
hành
vi
tham
nhũng
chủ
yếu
được
xử
lý
bằng
pháp
luật
hình
sự,
việc
xử
lý
hành
chính
hành
vi
tham
nhũng đang là
khoảng
trống
rất
lớn
và
hầu
như
chưa
được
thực
hiện.
Nguyên
nhân
là
do
Luật
PCTN
chưa
quy
định
rõ
các
hình
thức
xử
lý
và
thẩm
quyền
xử
lý
các
hành
vi
tham
nhũng
chưa
đủ
các
yếu
tố
cấu
thành
tội
phạm.
Bên
cạnh
đó,
Luật
PCTN
cũng
chưa
quy
định
chế
tài
đối
với
các
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật
về
PCTN,
cụ
thể
như
không
thực
hiện
việc
công
khai,
minh
bạch;
không
thực
hiện
trách
nhiệm
giải
trình;
không
xây
dựng
và
thực
hiện
các
định
mức
tiêu
chuẩn;
không
trả
lại
quà
tặng...
Khái
niệm
tài
sản
tham
nhũng
được
quy
định
tại
khoản
1
Điều
2
Luật
PCTN
như
sau:
“Tài
sản
tham
nhũng
là
tài
sản
có
được
từ
hành
vi
tham
nhũng,
tài
sản
có
nguồn
gốc
từ
hành
vi
tham
nhũng”.
Khái
niệm
này
phù
hợp
với
khái
niệm
về
tài
sản
do
phạm
tội
mà
có được
quy
định
tại
khoản
e
Điều
2
Công
ước
của
LHQ
về
Chống
tham
nhũng.
Tuy
nhiên,
do
“tài
sản
có
nguồn
gốc
từ
hành
vi
tham
nhũng”
có
phạm
vi
rất
rộng,
nên
với
Việt
Nam,
quy
định
này
chưa
phù
hợp
với
trình
độ
và
khả
năng
phát
hiện,
thu
hồi
tài
sản
phát
sinh
từ
tài
sản
tham
nhũng
gốc.
Bên
cạnh
đó,
Luật
cũng
chưa
quy
định
rõ
về
tài
sản
tăng
thêm
không
rõ
nguồn
gốc
và
phương
thức
xử
lý
đối
với
những
tài
sản
này
nên
vẫn
thiếu
các
biện
pháp
hữu
hiệu
nhằm
truy
nguyên
nguồn
gốc
tài
sản.
Các
quy
định
về
xử
lý
tài
sản
tham
nhũng
trong
Luật
PCTN
hiện
hành
còn
quá
sơ
lược,
mới
chỉ
dừng
lại
ở
một
vài
nguyên
tắc,
quan
điểm
mang
tính
định
hướng,
nhìn
chung
là
không
áp
dụng
được.
Theo
đó,
pháp
luật
hiện
hành
đã
cho
thấy
rõ
sự
“bất
lực”
khi
chưa
quy
định
rõ
các
biện
pháp
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
ở
trong
nước
và
có
yếu
tố
nước
ngoài
(tài
sản
tham
nhũng
được
chuyển
ra
nước
ngoài/chủ
thể
của
hành
vi
tham
nhũng
là
người
nước
ngoài…);
chưa
quy
định
rõ
các
trường
hợp
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
trước
và
sau
khi
có
bản
án
có
hiệu
lực
pháp
luật;
chưa
quy
định
về
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
theo
bản
án,
quyết
định
của
tòa
án
nước
ngoài,
theo
các
thỏa
thuận
quốc
tế
song
phương
và
đa
phương;
chưa
quy
định/dẫn
chiếu
luật
khác
về
trách
nhiệm
của
các
cơ
quan
trong
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng…
4. Tổ
chức
cơ
quan
phòng,
chống
tham
nhũng
Sau
10
năm
thi
hành
Luật
PCTN,
các
cơ
quan
PCTN
vẫn
thiếu
tính
độc
lập
cần
thiết,
lúng
túng
về
mô
hình
tổ
chức.
Chương
III
Luật
PCTN
hiện
hành
quy
định
về
tổ
chức
và
trách
nhiệm
của
các
cơ
quan
nhà
nước
trong
PCTN.
Về
bản
chất,
Chương
này
là
sự
tập
hợp
một
cách
giản
đơn
quy
định
về
các
cơ
quan
nhà
nước
hiện
đang
có
trách
nhiệm
trong
PCTN
như
Thanh
tra
Chính
phủ,
Bộ
Công
an,
Viện Kiểm
sát
nhân
dân
tối
cao,
Tòa
án
nhân
dân
tối
cao,
Kiểm
toán
Nhà
nước,
các
cơ
quan
có
trách
nhiệm
giám
sát
công
tác
PCTN…
Vì
chức
năng,
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
của
mỗi
cơ
quan
được
nêu
tại
Chương
này
đều
đã
được
quy
định
chi
tiết
tại
một
văn
bản
pháp
luật
khác,
do
đó,
với
quy
định
như
vậy,
thực
tế,
chương
này
trở
nên
“thừa”,
không
cần
thiết,
vì
trùng
lặp,
không
thể
hiện
được
đặc
thù
của
cơ
quan
chuyên
trách
chống
tham
nhũng.
Bên
cạnh
đó,
Luật
PCTN
không
quy
định
được
tiêu
chí
của
đơn
vị/cơ
quan
chuyên
trách
về
PCTN
nên
với
quy
định
mang
tính
liệt
kê
tại
Điều
75,
thực
tiễn
thi
hành
gặp
rất
nhiều
bất
cập.
Ngoài
ra,
quy
định
về
trách
nhiệm
trong
hoạt
động
thanh
tra,
kiểm
tra,
kiểm
toán,
giải
quyết
tố
cáo
tham
nhũng
chưa
có
sự
phân
định
rõ
đã
hạn
chế
tính
chủ
động
của
các
cơ
quan.
Hơn
nữa,
quy
định
của
Luật
PCTN
hiện
có
sự
“ngắt
quãng”
các
quá
trình
phát
hiện,
thanh
tra,
kiểm
toán,
điều
tra,
xử
lý
hành
vi
tham
nhũng
của
mỗi
cơ
quan.
Qua
đánh
giá
về
cơ
chế
phối
hợp
trong
phát
hiện,
xử
lý
tham
nhũng
thì
việc
tồn
tại
các
“khoảng
trống”,
thiếu
tính
kế
thừa
giữa
các
cơ
quan
có
thẩm
quyền
là
nguyên
nhân
làm
hạn
chế
hiệu
quả
phối
hợp.
5. Phát
huy
vai
trò
của
xã
hội
trong
phòng,
chống
tham
nhũng
Pháp
luật
PCTN
chưa
thực
sự
khuyến
khích,
phát
huy
vai
trò
của
xã
hội
trong
PCTN;
thiếu
cơ
chế
và
bảo
đảm
pháp
lý
cho
việc
phát
huy
vai
trò
của
xã
hội
dân
sự
trong
PCTN;
thiếu
cơ
chế
phối
hợp,
khuyến
khích
các
cơ
quan
nhà
nước
hợp
tác
với
các
tổ
chức,
cá
nhân
thuộc
khu
vực
tư
trong
PCTN.
Cũng
giống
như
hầu
hết
các
Chương
khác,
Chương
VI
Luật
PCTN
hiện
hành
(về
“Vai
trò
của
xã
hội
trong
PCTN”)
chủ
yếu
quy
định
những
vấn
đề
chung,
thể
hiện
quan
điểm,
định
hướng
mà
không
có
tính
khả
thi.
Tham
nhũng
chủ
yếu
diễn
ra
ở
khu
vực
công,
bởi
những
chủ
thể
công
quyền,
do
đó,
việc
đấu
tranh
chống
tham
nhũng
bởi
chính
các
lực
lượng
thuộc
công
quyền,
do
cán
bộ,
công
chức,
viên
chức
tiến
hành
luôn
gặp
khó
khăn,
thách
thức
bởi
rào
cản
về
XĐLI.
Kinh
nghiệm
quốc
tế
và
thực
tiễn
đấu
tranh
cách
mạng
Việt
Nam
cho
thấy,
nếu
không
phát
huy
sức
mạnh
của
nhân
dân,
không
phát
huy
được
vai
trò
của
nhóm
chủ
thể
“phía
bên
kia
Nhà
nước”
thì
sự
nghiệp
PCTN
không
thể
thành
công.
Đặc
biệt,
trong
bảo
vệ
người
tố
cáo
tham
nhũng
, pháp
luật
về
PCTN
chưa
thể
hiện
rõ
tính
chủ
động
và
sự
tri
ân
của
Nhà
nước
đối
với
những
người
dân
đã
tình
nguyện
hy
sinh
để
bảo
vệ
công
lý,
sẵn
sàng
và
vô
tư
trợ
giúp
các
cơ
quan
nhà
nước
trong
cuộc
đấu
tranh
PCTN
ngày
càng
cam
go,
quyết
liệt.
Pháp
luật
về
PCTN
hiện
chưa
có
các
biện
pháp
cụ
thể,
hữu
hiệu
nhằm
bảo
vệ
người
tố
cáo
tham
nhũng
để
tránh
cho
họ
nguy
cơ
bị
đe
dọa,
trả
thù,
trù
dập.
Các
quy
định
về
tố
cáo
và
giải
quyết
tố
cáo
hành
vi
tham
nhũng
còn
thiếu
các
biện
pháp
bảo
đảm
thực
hiện,
đặc
biệt
là
các
biện
pháp
bảo
vệ
hoặc
khen
thưởng
người
có
thành
tích
trong
tố
cáo
nhằm
giúp
cán
bộ,
công
chức,
viên
chức
hoặc
người
dân
mạnh
dạn
tố
cáo
tham
nhũng,
nhất
là
trong
nội
bộ
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị.
6. Giáo
dục
đạo
đức
liêm
chính
phòng,
chống
tham
nhũng
Luật
PCTN
hiện
hành
thiếu
hoàn
toàn
các
quy
định
về
biện
pháp
phòng
ngừa
tham
nhũng
thông
qua
giáo
dục
đạo
đức
liêm
chính
cho
người
dân,
nhất
là
cho
thế
hệ
trẻ,
dù
đây
là
biện
pháp
phòng
ngừa
bền
vững
nhất,
mang
tính
chiến
lược,
nhằm
hạn
chế/cải
thiện
nguyên
nhân
tham
nhũng
nằm
sâu
trong
bản
thân
mỗi
cá
nhân
và
nhằm
bảo
đảm
cho
mỗi
người
dân
khả
năng
tự
vệ
và
khả
năng
đấu
tranh
PCTN,
nhất
là
trong
bối
cảnh
hiện
nay,
hiện
tượng
“tham
nhũng
bẩn”,
“tham
nhũng
vặt”
diễn
ra
tràn
lan,
gần
như
không
loại
trừ
người
dân
nào.
Tham
nhũng
là
biểu
hiện
của
lòng
“tham”,
của
cái
“ác”,
của
bản
năng
tự
nhiên
nằm
sâu
trong
mỗi
con
người.
Nó
giống
như
các
nguyên
tố
tự
nhiên
nằm
bên
trong
cấu
trúc
của
mỗi
hạt
giống
mà
trong
điều
kiện
khô
nóng
chúng
tạm
“ngủ
yên”,
nhưng
khi
gặp
nước,
nhiệt
độ
và
ánh
sáng
thích
hợp,
chúng
sẽ
nảy
mầm.
Với
con
người,
khi
tham
gia
xã
hội,
lòng
“tham”,
cái
“ác”,
thường
được
che
giấu,
chờ
điều
kiện
thích
hợp
để
bộc
lộ
hoặc
cũng
có
trường
hợp
lòng
“tham”,
cái
“ác”
đó
bị
cái
“thiện”
lấn
át
hoặc
bị
chôn
vùi
bởi
quan
niệm
về
đạo
đức
liêm
chính.
Biện
chứng
ở
đây
là,
để
tham
nhũng
không
có
cơ
hội
phát
tác,
cần
chủ
động
triệt
tiêu
điều
kiện
nảy
nở,
“dung
túng”
tham
nhũng,
nghĩa
là
phải
hoàn
thiện
pháp
luật
và
quản
trị
tốt
để
người
ta
không
thể
tham
nhũng,
không
dám
tham
nhũng,
không
cần
tham
nhũng.
Tuy
nhiên,
việc
hạn
chế
điều
kiện,
cơ
hội
tham
nhũng
mới
chỉ
xử
lý
được
phần
“ngọn”
của
vấn
đề,
chỉ
có
giáo
dục
liêm
chính,
giáo
dục
hướng
“thiện”
mới
giải
quyết
được
tận
gốc
nguyên
nhân
tham
nhũng.
Vì
vậy,
pháp
luật
về
PCTN
và
nền
quản
trị
của
mọi
quốc
gia
phải
cùng
lúc
hạn
chế
điều
kiện
phát
sinh
tham
nhũng
và
giải
quyết
nguyên
nhân
tự
nhiên
của
tham
nhũng.
Theo
đó,
giáo
dục
đạo
đức
liêm
chính
cho
người
dân,
nhất
là
thế
hệ
trẻ
cần
được
thể
chế
hóa
bằng
luật
để
có
thể
chính
thức
hóa
biện
pháp
phòng
ngừa
chiến
lược
này.
Đồng
thời,
đây
cũng
là
sự
khẳng
định
nhất
quán
quan
điểm
của
Nhà
nước
về
đầu
tư
cho
giáo
dục
đạo
đức
liêm
chính
để
PCTN.
Hành
động
này
cũng
là
sự
hiệu
triệu,
thu
hút
sự
tham
gia
của
nhiều
chủ
thể
trong
và
ngoài
nhà
nước,
bao
gồm
cả
các
tổ
chức
xã
hội,
các
thiết
chế
tôn
giáo
trong
giáo
dục
đạo
đức
liêm
chính
cho
các
tầng
lớp
nhân
dân.
Thời
gian
vừa
qua,
tuy
Luật
PCTN
hiện
hành
không
có
quy
định
về
giáo
dục
đạo
đức
liêm
chính
cho
người
dân
nhằm
PCTN,
theo
đề
nghị
của
Thanh
tra
Chính
phủ
và
Bộ
Giáo
dục
và
Đào
tạo,
công
tác
giáo
dục
pháp
luật
về
PCTN
đã
được
Chính
phủ
chỉ
đạo
thực
hiện
qua
việc
ban
hành
Quyết
định
số
137/2009
QĐ-TTg
ngày 02/12/2009
của
Thủ
tướng
Chính
phủ phê
duyệt
Đề
án
đưa
nội
dung
PCTN
vào
chương
trình
giáo
dục,
đào
tạo,
bồi
dưỡng;
Chỉ
thị
số
10
CT/TTg
ngày
12/6/2013
về
việc
đưa
nội
dung
PCTN
vào
giảng
dạy
tại
các
cơ
sở
giáo
dục,
đào
tạo
từ
năm
học
2013-2014.
Sơ
kết
03
năm
việc
thực
hiện
Chỉ
thị
số
10
cho
thấy, đây
là
chủ
trương
đúng
đắn,
phù
hợp
với
đòi
hỏi
thực
tiễn,
cần
được
tăng
cường,
phát
huy
theo
hướng
kết
hợp
giáo
dục
pháp
luật
về
PCTN
với
giáo
dục
đạo
đức
liêm
chính,
theo
các
phương
thức
linh
hoạt,
với
sự
tham
gia
của
nhiều
chủ
thể
nhà
nước
và
xã
hội,
phù
hợp
với
từng
đối
tượng
mà
trọng
tâm
là
học
sinh,
sinh
viên
và
cán
bộ,
công
chức,
viên
chức.
Tuy
nhiên,
biện
pháp
tiên
quyết
trước
mắt
là
cần
bổ
sung
quy
định
về
giáo
dục
đạo
đức
liêm
chính
cho
người
dân
vào
Luật
PCTN.
7. Hình
sự
hóa
hành
vi
tham
nhũng
Việc
quy
định
hành
vi
tham
nhũng
trong
Luật
PCTN
và
quy
định
tội
phạm
về
tham
nhũng
trong
BLHS
chưa
hợp
lý
đã
dẫn
đến
hiệu
quả
xử
lý
hành
vi
tham
nhũng
và
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
còn
rất
thấp.
Điều
3
Luật
PCTN
đã
quy
định
12
nhóm
hành
vi
tham
nhũng,
trong
đó
các
hành
vi
từ
1-7
là
hành
vi
đã
được
hình
sự
hóa;
các
hành
vi
từ
8-12
là
hành
vi
mới
bổ
sung
theo
yêu
cầu
thực
tiễn,
chưa
quy
định
phải
xử
lý
hình
sự.
Quy
định
này
là
thống
nhất
với
quy
định
tại
Mục
1
Chương
XXIII
BLHS
năm
2015.
Tuy
nhiên,
quy
định
như
vậy
sẽ
bỏ
lọt
đa
số
hành
vi
tham
nhũng
trong
thực
tiễn,
bởi
ngoại
trừ
các
tội
xâm
phạm
an
ninh
quốc
gia,
với
hầu
hết
các
tội
khác
được
quy
định
trong
BLHS,
nếu
chủ
thể
của
hành
vi
là
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
và
lợi
dụng
chức
vụ
quyền
hạn
vì
vụ
lợi
thì
phải
được
nghiên
cứu,
xử
lý
theo
tội
danh
tham
nhũng.Mặt
khác,
dưới
góc
độ
pháp
luật
hình
sự,
mặc
dù
khái
niệm
tham
nhũng
đã
đạt
được
những
tiến
bộ
nhất
định, nhưng
BLHS
năm
2015:
(i)
vẫn
coi
hành
vi
đưa
hối
lộ
và
hành
vi
lợi
dụng
ảnh
hưởng
đối
với
người
có
chức
vụ
quyền
hạn
để
trục
lợi
không
phải
là
hành
vi
tham
nhũng,
do
đó
đã
xếp
hành
vi
này
vào
mục
B
(Các
tội
phạm
khác
về
chức
vụ);
(ii)
chưa
coi
pháp
nhân
là
chủ
thể
của
tội
phạm
tham
nhũng;
(iii)
chưa
coi
hành
vi
hứa
hẹn,
gợi
ý
của
người
đưa
và
hành
vi
đòi
hối
lộ
của
người
nhận
hối
lộ
là
hành
vi
định
tội
và
(iv)
chưa
hình
sự
hóa
hành
vi
làm
giàu
bất
chính.
Điều
này
đặt
ra
yêu
cầu
cần
tiếp
tục
nghiên
cứu,
sửa
đổi
cho
phù
hợp
với
Công
ước
của
LHQ
về
Chống
tham
nhũng.
Tóm
lại,
sau
10
năm
thi
hành,
Luật
PCTN
đã
bộc
lộ
nhiều
bất
cập
lớn
so
với
đòi
hỏi
của
thực
tiễn
và
các
chuẩn
mực
quốc
tế
về
PCTN
mà
Việt
Nam
đã
cam
kết,
thừa
nhận. Sự
lạc
hậu,
lúng
túng
trong
tư
duy
chính
trị
-
pháp
lý
về
tham
nhũng
và
PCTN
đến
tính
hình
thức,
thiếu
đồng
bộ
của
các
quy
định
về
phòng
ngừa,
xử
lý
tham
nhũngđang khiến
Luật
PCTN
đứng
trước
khả
năng
phải
sửa
đổi,
bổ
sung
một
cách
căn
bản
và
toàn
diện.
Do
những
bất
cập
của
Luật
PCTN
không
chỉ
mang
tính
kỹ
thuật,
việc
sửa
đổi
Luật
PCTN
lần
này
đòi
hỏi
cơ
quan
soạn
thảo
và
người
có
trách
nhiệm
phải
có
cách
tiếp
cận
“mở”,
từ
khái
niệm
tham
nhũng,
chủ
thể
của
hành
vi
tham
nhũng,
phạm
vi
và
khách
thể
xâm
hại
của
hành
vi
tham
nhũng,
hình
sự
hóa
hành
vi
tham
nhũng
đến
công
tác
PCTN.
Đồng
thời,
cần
xác
định
chính
xác
những
vấn
đề
thực
tiễn
mà
Luật
PCTN
và
các
văn
bản
pháp
luật
khác
cần
đối
mặt
để
giải
quyết
triệt
để.
Cho
dù
với
phương
châm
tiệm
tiến,
cơ
quan
chủ
trì
soạn
thảo
và
Chính
phủ
đang
tìm
kiếm
và
xác
định
những
vấn
đề
được
coi
là
trọng
tâm
cần
giải
quyết
trước
mắt
thì
việc
gắn
PCTN
với
quản
trị
tốt;
gắn
giáo
dục
đạo
đức
liêm
chính
với
phát
huy
vai
trò
của
xã
hội
trong
PCTN;
tăng
cường
tính
độc
lập
của
cơ
quan
chuyên
trách
PCTN
luôn là
đòi
hỏi
tất
yếu,
vừa
thực
tế,
thường
xuyên,
vừa
mang
tính
chiến
lược
quyết
định
sự
thành
công
của
sự
nghiệp
PCTN
ở
Việt
Nam./.
[1] Nhận
định
trong
Chỉ
thị
số
50-CT/TW
ngày
07/12/2015
của
Bộ
Chính
trị
về
tăng
cường
sự
lãnh
đạo
của
Đảng
đối
với
công
tác
phát
hiện,
xử
lý
vụ
việc,
vụ
án
tham
nhũng.
[2] Trong
10
năm
qua
đã
có
nhiều
khảo
sát,
nghiên
cứu,
đánh
giá
về
việc
thực
hiện
Luật
PCTN
như:
Báo
cáo
chỉ
số
hiệu
quả
quản
trị
và
hành
chính
công
cấp
tỉnh
giai
đoạn
2010
-
2014;
Báo
cáo
kết
quả
khảo
sát
“Tham
nhũng
từ
góc
nhìn
của
người
dân,
doanh
nghiệp
và
cán
bộ,
công
chức,
viên
chức”
năm
2013
do
Ngân
hàng
Thế
giới
và
Thanh
tra
Chính
phủ
thực
hiện;
Báo
cáo
khảo
sát
về
xung
đột
lợi
ích
trong
khu
vực
công:
quy
định
và
thực
tiễn
ở
Việt
Nam
do
Ngân
hàng
Thế
giới
và
Thanh
tra
Chính
phủ
thực
hiện;
Báo
cáo
khảo
sát
10
năm
thi
hành
Luật
PCTN
năm
2015;
Báo
cáo
công
tác
PCTN
hàng
năm
của
Chính
phủ;
Báo
cáo
của
Chính
phủ
tại
Hội
nghị
tổng
kết
10
năm
thi
hành
Luật
PCTN…
[3] Xem
thêm:
Luật
PCTN
năm
2005
và
Luật
sửa
đổi,
bổ
sung
một
số
Điều
của
Luật
PCTN
năm
2012.
[4] Theo
khoản
3
Điều
1
Luật
PCTN
năm
2005,
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
bao
gồm:
a)
Cán
bộ,
công
chức,
viên
chức;
b)
Sĩ
quan,
quân
nhân
chuyên
nghiệp,
công
nhân
quốc
phòng
trong
cơ
quan,
đơn
vị
thuộc
Quân
đội
nhân
dân;
sĩ
quan,
hạ
sĩ
quan
nghiệp
vụ,
sĩ
quan,
hạ
sĩ
quan
chuyên
môn
-
kỹ
thuật
trong
cơ
quan,
đơn
vị
thuộc
Công
an
nhân
dân;
c)
Cán
bộ
lãnh
đạo,
quản
lý
trong
doanh
nghiệp
của
Nhà
nước;
cán
bộ
lãnh
đạo,
quản
lý
là
người
đại
diện
phần
vốn
góp
của
Nhà
nước
tại
doanh
nghiệp;
d)
Người
được
giao
thực
hiện
nhiệm
vụ,
công
vụ
có
quyền
hạn
trong
khi
thực
hiện
nhiệm
vụ,
công
vụ
đó.
[5]Theo
Từ
điển
Tiếng
Việt:
“vụ
lợi”
được
hiểu
là
vì
“mưu
cầu
lợi
ích
cho
riêng
mình”
(Từ
điển
Tiếng
Việt,
Nxb
Đà
Nẵng,
năm
2000,
tr.
1130);
Theo
quy
định
tại
Điều
2
Luật
PCTN:
“Vụ
lợi”
là
lợi
ích
vật
chất,
tinh
thần
mà
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
đạt
được
hoặc
có
thể
đạt
được
thông
qua
hành
vi
tham
nhũng.
[6]Mỗi
quốc
gia
thành
viên
của
Công
ước
xem
xét
áp
dụng
các
biện
pháp
lập
pháp
và
các
biện
pháp
cần
thiết
khác
nhằm
quy
định
những
hành
vi
sau
là
tội
phạm,
nếu
được
thực
hiện
một
cách
cố
ý
trong
hoạt
động
kinh
tế,
tài
chính
hoặc
thương
mại:
(a)
Hành
vi
hứa
hẹn,
tặng
hay
cho
một
lợi
ích
bất
chính
cho
người
điều
hành
hay
làm
việc,
ở
bất
kỳ
cương
vị
nào,
cho
tổ
chức
thuộc
khu
vực
tư
vì
lợi
ích
của
chính
người
đó
hay
của
người
hoặc
tổ
chức
khác,
để
người
đó
làm
hoặc
không
làm
việc
gì
vi
phạm
nhiệm
vụ
của
mình;
(b)
Hành
vi
đòi
hoặc
nhận
trực
tiếp
hay
gián
tiếp
lợi
ích
bất
chính
bởi
người
điều
hành
hay
làm
việc,
ở
bất
kỳ
cương
vị
nào,
cho
tổ
chức
thuộc
khu
vực
tư
vì
lợi
ích
của
bản
thân
người
đó
hay
của
người
khác
để
làm
hay
không
làm
việc
gì
vi
phạm
nhiệm
vụ
của
mình.
[7] Mỗi
quốc
gia
thành
viên
xem
xét
áp
dụng
các
biện
pháp
lập
pháp
và
các
biện
pháp
cần
thiết
khác
để
quy
định
là
tội
phạm
đối
với
hành
vi
người
điều
hành
hay
làm
việc,
ở
bất
kỳ
cương
vị
nào,
cho
tổ
chức
thuộc
khu
vực
tư
biển
thủ
tài
sản,
quỹ
tư
hoặc
chứng
khoán
hoặc
bất
kỳ
thứ
gì
khác
có
giá
trị
mà
người
này
được
giao
quản
lý
do
vị
trí
của
mình,
nếu
hành
vi
biển
thủ
đó
được
thực
hiện
một
cách
cố
ý
trong
quá
trình
hoạt
động
kinh
tế,
tài
chính
hoặc
thương
mại.
[8] Điều
277
BLHS năm 1999
quy
định: 1.
Các
tội
phạm
về
chức
vụ
là
những
hành
vi
xâm
phạm
hoạt
động
đúng
đắn
của
cơ
quan,
tổ
chức
do
người
có
chức
vụ
thực
hiện
trong
khi
thực
hiện
công
vụ,
nhiệm
vụ.
2.
Người
có
chức
vụ
là
người
do
bổ
nhiệm,
do
bầu
cử,
do
hợp
đồng
hoặc
do
một
hình
thức
khác,
có
hưởng
lương
hoặc
không
hưởng
lương,
được
giao
thực
hiện
một
nhiệm
vụ
nhất
định
và
có
quyền
hạn
nhất
định
trong
khi
thực
hiện
công
vụ,
nhiệm
vụ.
[9] Tình
trạng
này
thể
hiện
qua
một
số
khía
cạnh
cụ
thể
như:
(i)
Pháp
luật
về cán
bộ,
công
chức
(CBCC) có
quy
định
về
những
việc
CBCC
không
được
làm,
trong
đó
có
việc
sử
dụng
thông
tin
liên
quan
đến
công
vụ
để
vụ
lợi,nhưng pháp
luật
chuyên
ngành
trong
một
số
lĩnh
vực
như
đấu
thầu,
doanh
nghiệp,
tài
chính,
ngân
hàng
lại
thiếu
các
quy
định
nhằm
nhận
dạng
chủ
sở
hữu
thực
sự
của
pháp
nhân
kinh
tế
để
làm
căn
cứ
tuyên
vô
hiệu
các
giao
dịch
phát
sinh
khi
có
vi
phạm;
(ii)
Pháp
luật
quy
định
những
hạn
chế
đối
với
CBCC
để
phòng
ngừa
XĐLI,
song
lại
không
có
phương
thức
để
hạn
chế
đối
với
vợ/chồng,
con,
đặc
biệt
là
người
thân
của
CBCC
khi
chính
các
chủ
thể
này
mới
là
người
thực
hiện
các
hành
vi
thu
lợi
cho
CBCC
(dưới
hình
thức
doanh
nghiệp
“sân
sau”
hoặc
trục
lợi
qua
thông
tin
có
được
từ
vị
trí
công
tác);
(iii)
Pháp
luật
về
CBCC
có
quy
định
nhằm
kiểm
soát
XĐLI
do
nắm
giữ
thông
tin
có
được
từ
vị
trí
công
tác,
tuy
nhiên
pháp
luật
về
quản
lý
thông
tin
trong
các
cơ
quan
nhà
nước
(bao
gồm
Luật
Tiếp
cận
thông
tin,
Pháp
lệnh
Bảo
vệ
bí
mật
nhà
nước
và
các
văn
bản
khác
về
quản
lý
thông
tin
nội
bộ
trong
các
cơ
quan
nhà
nước)
lại
chưa
được
hoàn
thiện,
thiếu
các
phương
thức
kiểm
soát
có
hiệu
quả
thông
tin
quản
lý
nội
bộ
và
hình
thức
xử
lý
kèm
theo
khi
có
vi
phạm
pháp
luật.
Việc
thực
hiện
kê
khai
tài
sản,
thu
nhập
được
quy
định
và
tiến
hành
hàng
năm,
nhưng
lại
thiếu
các
phương
thức
nhằm
kiểm
soát
thu
nhập
và
biến
động
tài
sản,
chưa
có
quy
định
chung
về
kiểm
soát
thu
nhập
đối
với
CBCC
và
các
đối
tượng
khác
trong
xã
hội;
thực
hiện
quy
chế
tặng
quà
và
nhận
quà
tặng,
song
lại
thiếu
bộ
máy
để
tổ
chức
thực
hiện,
kiểm
tra
và
xử
lý
vi
phạm...