(PCTN)
số
330/BC-CP
ngày
22/9/2016
của
Chính
phủ
trình
Quốc
hội
khóa
XIV,
kỳ
họp
thứ
4
có
kết
luận
về
việc
công
khai,
minh
bạch
bản
kê
khai
tài
sản,
thu
nhập
(TS,TN)
như
sau:
“Tình
trạng
lạm
dụng
bảo
mật
thông
tin,
thiếu
công
khai,
minh
bạch
với
nhân
dân
và
trong
nội
bộ
vẫn
diễn
ra
ở
nhiều
nơi.
Trong
một
số
cơ
quan,
đơn
vị,
các
quy
định
về
dân
chủ,
giám
sát
chưa
được
quan
tâm
đúng
mức,
có
nơi
thậm
chí
cản
trở,
vô
hiệu
hóa,
dẫn
đến
tình
trạng
vi
phạm
kéo
dài,
sai
phạm
nghiêm
trọng
nhưng
không
được
kịp
thời
phát
hiện,
xử
lý”.
Kết
luận
đúng
đắn
như
vậy
có
nghĩa
là
Chính
phủ
trực
tiếp
đặt
ra
vấn
đề
cho
Ban
soạn
thảo
Dự
thảo
Luật
PCTN
(sửa
đổi)
phải
khắc
phục
về
cơ
bản
các
khuyết
điểm
đó,
nhất
là
khuyết
điểm
thiếu
công
khai,
minh
bạch
với
nhân
dân.
Theo
chúng
tôi,
để
PCTN
nói
chung,
kê
khai
và
công
khai
TS,TN
nói
riêng
có
kết
quả
thực
chất
thì
phải
xử
lý
ít
nhất
bốn
loại
vấn
đề
cốt
lõi
sau
đây:
1.
Người
đứng
đầu
chỉ
đạo
phòng,
chống
tham
nhũng phải
là
người
có
đôi
bàn
tay
sạch
Đây
là
vấn
đề
then
chốt
của
mọi
vấn
đề.
Chuyện
tưởng
chừng
đơn
giản
nhưng
thực
sự
rất
khó,
vô
cùng
khó.
Nhân
dân
thì
đồng
lòng,
nhất
trí
cao
để
PCTN,
nhưng
trong
hàng
ngũ
lãnh
đạo,
quản
lý
ở
các
ngành,
các
cấp,
các
địa
phương
thì
khác.
Từ
thực
tế
xã
hội,
có
thể
phân
ra
3
xu
hướng:
xu
hướng
thứ
nhất
kiên
quyết
chống,
triệt
để
PCTN,
nhưng
tiếc
là
xu
hướng
này
chưa
thu
hút
được
số
đông
tuyệt
đối;
xu
hướng
thứ
hai,
chống
tham
nhũng
“từ
cổ
họng
trở
ra
cửa
miệng”,
nói
thì
rất
ghê
nhưng
thực
lòng
thì
muốn
“đục
nước,
béo
cò”;
loại
thứ
ba,
“quan
năm
cũng
ừ,
quan
tư
cũng
gật”,
“thuận
theo
chiều
gió”,
phía
nào
“mạnh”
thì
dựa
dẫm
theo
phía
đó.
Nhưng
có
một
thực
tế
khác
đau
đớn
hơn
là,
các
vụ
án
tham
nhũng
đã
và
đang
được
xét
xử
cho
thấy,
hầu
hết
bị
can,
bị
cáo
lại
là
người
đứng
đầu
hoặc
cấp
phó
của
người
đứng
đầu,
và
những
người
này
trước
khi
bị
xét
xử
là
đảng
viên
(từ
các
vụ
Trịnh
Xuân
Thanh,
Đinh
La
Thăng,
Phan
Văn
Vĩnh,
Nguyễn
Thanh
Hóa
đến
các
vụ
trước
đây
như
Vinashin,
Vinalies,
vụ
chia
chác
đất
công
ở
Đồ
Sơn
(Hải
Phòng),
hay
xa
hơn
là
vụ
PMU
18,vụ
Đề
án
112,
vụ
Đường
dây
500
KV...
các
bị
cáo
hầu
hết
là
người
đứng
đầu
có
chức
vụ
cao,
có
quyền
hành
lớn).
Như
đã
biết,
Luật
PCTN
hiện
hành
nói
chung
và
các
Điều
53a,
54
nói
riêng
đã
giao
cho
người
đứng
đầu
rất
nhiều
việc
quan
trọng.
Tuy
nhiên,
một
khi
họ
đã
tham
nhũng
thì
không
đời
nào
họ
“tự
trảm
mình”
mà
ngược
lại,
họ
làm
động
tác
giả,
đánh
lừa
dư
luận
để
bảo
vệ
chính
mình.
Và
như
thế,
toàn
bộ
bộ
máy,
cán
bộ
dưới
quyền
của
họ
đều
bị
vô
hiệu
hóa.
Đây
cũng
là
nguyên
nhân
tối
quan
trọng
lý
giải
vì
sao
việc
hô
hào
chống
tham
nhũng
thì
rầm
rộ
mà
kết
quả
của
10
năm
thì
lại...
nhẹ
tênh.
Thực
tế
này
đặt
ra
nhiệm
vụ
cực
kỳ
nặng
nề
và
cấp
thiết
cho
việc
kiện
toàn
bộ
máy,
chuyển
hóa
căn
bản
đội
ngũ
cán
bộ
lãnh
đạo,
quản
lý
theo
tinh
thần
Nghị
quyết
Trung
ương
4,
khóa
XII
(về
tăng
cường
xây
dựng,
chỉnh
đốn
Đảng;
ngăn
chặn,
đẩy
lùi
sự
suy
thoái
về
tư
tưởng
chính
trị,
đạo
đức,
lối
sống,
những
biểu
hiện
“tự
diễn
biến”,
“tự
chuyển
hóa”
trong
nội
bộ)
của
Đảng
trước
khi
Luật
PCTN
(sửa
đổi)
có
hiệu
lực
thi
hành.
Người
đứng
đầu
ngành,
địa
phương,
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị
về
cơ
bản
phải
là
người
thực
sự
có
dũng
khí,
quyết
tâm
PCTN
triệt
để,
“hai
tay
họ
còn
sạch
sẽ”.
Đây
cũng
chính
là
một
trong
các
lý
do
mà
Nghị
quyết
Trung
ương
4
khóa
XII
đã
có
tới
11
lần
nhấn
mạnh
vai
trò,
trách
nhiệm
của
người
đứng
đầu.
Trong
đó
rất
quan
trọng
là
đi
đầu,
tiên
phong
trong
công
cuộc
chống
giặc
nội
xâm
-
tham
nhũng.
2.
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng (sửa
đổi)
phải
xác
lập
ngay
chế
tài
để
không
thể
kê
khai
gian
dối
Kê
khai
TS,TN
là
công
đoạn
mang
nhiều
ý
nghĩa
rất
quan
trọng.
Trước
hết,
đây
là
cuộc
đấu
tranh
nội
tâm
ghê
gớm,
có
nhiều
trường
hợp
khá
gay
gắt,
quyết
liệt
của
những
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai.
Thường
là
đã
khi
tham
nhũng
đến
mức
không
thể
lý
giải
được
nguồn
gốc
tài
sản
thì
rất
khó
khai
báo
thật
thà,
đầy
đủ,
trung
thực.
Tiếp
đó,
một
khi
nhiều
người
kê
khai
gian
dối,
không
trung
thực
thì
đương
nhiên
sau
đó
sẽ
phát
sinh
một
khối
lượng
công
việc
đồ
sộ,
vô
vàn
khó
khăn
ở
các
công
đoạn
xác
minh,
giám
sát,
thanh
tra,
kiểm
tra
của
các
cơ
quan
chức
năng,
tức
là
dễ
rơi
vào
tình
trạng
bị
động
truy
tìm
mệt
mỏi,
hao
tổn
nhiều
thời
gian
và
công
sức
mà
không
mấy
kết
quả.
Sau
nữa,
nhiều
nơi
thấy
“khó
quá,
đành
buông
xuôi”!
Do
đó,
Luật
PCTN
(sửa
đổi)
phải
thiết
kế
được
“lối
đi
độc
đạo”
chắc
chắn
(không
có
lối
rẽ)
để
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
phải
khai
đúng.
TS,TN
phải
kê
khai,
theo
quy
định
tại
Điều
38
của
Dự
thảo
Luật
(Dự
thảo
2
trình
Quốc
hội
tại
kỳ
họp
thứ
5
ngày
31/5/2018)
có
4
nhóm:
1.
Quyền
sử
dụng
đất,
nhà
ở,
công
trình
xây
dựng
và
các
tài
sản
khác
gắn
liền
với
đất,
nhà
ở,
công
trình
xây
dựng.
2.
Kim
khí
quý,
đá
quý,
tiền,
giấy
tờ
có
giá
và
các
loại
động
sản
khác
mà
mỗi
tài
sản
có
giá
trị
từ
50.000.000
đồng
trở
lên.
3.
Tài
sản,
tài
khoản
ở
nước
ngoài.
4.
Tổng
thu
nhập
tính
từ
lần
kê
khai
trước
đến
thời
điểm
kê
khai
kế
tiếp.
Mỗi
nhóm
cần
có
chế
tài
để
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
phải
khai
đúng
(nếu
không
khai
thì
mất,
khai
sai
sẽ
bị
xử
lý).
Có
thể
lấy
nhóm
1
(nhà,
đất)
làm
ví
dụ:
Sau
kê
khai
lần
thứ
nhất
thì
Nhà
nước
tổng
kiểm
kê
bất
động
sản.
Nếu
trên
địa
bàn
(làng,
xóm,
tổ
dân
phố,
phường,
xã,
thị
trấn)
có
nhà,
đất,
công
trình
xây
dựng
là
“chủ
nhân
lạ”
thì
phải
truy
xét
đến
cùng
cho
tới
khi
xác
định
đúng
chủ
nhân
đích
thực;
nếu
vô
thừa
nhận
thì
nhà,
đất
đó
được
đưa
vào
tài
sản
chung
của
Nhà
nước
(hiện
nay
công
dân
ở
các
địa
bàn
làng,
xóm,
tổ
dân
phố,
phường,
xã,
thị
trấn,
họ
đều
biết
khá
rõ,
nhà,
đất
đó
chủ
nhân
đích
thực
là
ai)...
3.
Đối
tượng
kê
khai
tài
sản,
thu
nhập
Theo
quy
định
tại
Điều
37
(của
Dự
thảo
2
Luật
PCTN
(sửa
đổi)
thì
diện
có
nghĩa
vụ
kê
khai
rất
rộng,
bao
gồm:
1.
Cán
bộ,
công
chức.
2.
Sĩ
quan
chỉ
huy
từ
cấp
Phó
Tiểu
đoàn
trưởng,
người
hưởng
phụ
cấp
chức
vụ
tương
đương
Phó
Tiểu
đoàn
trưởng
trở
lên
trong
cơ
quan,
đơn
vị
thuộc
Quân
đội
nhân
dân;
sĩ
quan
chỉ
huy
từ
cấp
Phó
Tiểu
đoàn
trưởng,
Phó
Trưởng
công
an
phường,
thị
trấn,
Phó
đội
trưởng
trở
lên
trong
cơ
quan,
đơn
vị
thuộc
Công
an
nhân
dân.
3.
Người
giữ
chức
vụ
tương
đương
Phó
Trưởng
phòng
trở
lên
tại
các
đơn
vị
sự
nghiệp
công
lập,
doanh
nghiệp
nhà
nước,
người
được
cử
làm
đại
diện
phần
vốn
nhà
nước,
phần
vốn
của
doanh
nghiệp
nhà
nước
và
giữ
chức
danh
quản
lý
từ
Phó
Trưởng
phòng
trở
lên
trong
doanh
nghiệp
có
vốn
Nhà
nước,
doanh
nghiệp
có
vốn
của
doanh
nghiệp
nhà
nước.
4.
Đại
biểu
Quốc
hội,
đại
biểu
Hội
đồng
nhân
dân
(HĐND)
các
cấp
không
phải
là
cán
bộ,
công
chức.
5.
Người
ứng
cử
đại
biểu
Quốc
hội,
đại
biểu
HĐND.
Năm
2013,
năm
Luật
sửa
đổi,
bổ
sung
một
số
điều
của
Luật
PCTN
số
27/2012/QH13
có
hiệu
lực
thi
hành,
cả
nước
đã
có
620
nghìn
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
TS,TN;
đến
năm
2016
mở
rộng
ra
tới
gần
1,2
triệu
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai.
Hầu
như
tất
cả
những
người
đã
kê
khai,
bản
kê
khai
đều
được
chấp
nhận.
Và
qua
10
năm
thi
hành
Luật,
chỉ
phát
hiện
và
xử
lý
có
17
trường
hợp
kê
khai
không
trung
thực,
trong
khi
đó,
ở
thời
gian
này
hàng
loạt
vụ
tham
nhũng
lớn
được
phát
hiện
(như
đã
nói
ở
trên).
Nếu
theo
dự
kiến
mở
rộng
diện
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
như
Điều
37
của
Dự
thảo
Luật
thì
ước
tính
có
tới
gần
2
triệu
người
thuộc
diện
phải
kê
khai.
Với
gần
1,2
triệu
người,
thậm
chí
mới
có
620
nghìn
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
mà
còn
chưa
thể
phát
hiện
được
sai
sót
gì
đáng
kể,
thì
khi
Điều
37
của
Dự
thảo
Luật
nói
trên
được
thông
qua
thì
liệu
chừng
việc
kiểm
soát
gần
2
triệu
người
kê
khai
có
khả
thi
không?
Chắc
chắn
là
không,
thậm
chí
còn
hết
sức
phức
tạp!
Vì
vậy,
để
tiến
hành
kê
khai
TS,TN
có
hiệu
quả,
thiết
thực,
có
trọng
tâm,
trọng
điểm
như
kinh
điển
đã
dạy
“thà
ít
mà
tốt”,
trước
hết,
ở
Trung
ương
cần
tập
trung
vào
số
cán
bộ
do
Bộ
Chính
trị,
Ban
Bí
thư
quản
lý;
ở
địa
phương
là
số
cán
bộ
do
tỉnh
ủy,
thành
ủy
và
Ban
Thường
vụ
tỉnh,
thành
ủy,
huyện
(quận,
thị)
ủy,
quản
lý.
Thứ
hai là
những
người
làm
ở
những
nơi
có
nguy
cơ
dễ
xảy
ra
tham
nhũng
(thuế
vụ,
hải
quan,
xây
dựng,
ngân
hàng,
tài
chính,
bất
động
sản...).
Thứ
ba là
những
người
có
thu
nhập
cao
bất
thường,
gồm
những
người
có
tài
sản,
tài
khoản
ở
nước
ngoài,
những
người
là
“khách
hàng
được
chăm
sóc
đặc
biệt”
của
các
ngân
hàng
thương
mại
(họ
gọi
là
khách
VIP),
có
tiền
gửi
hàng
trăm
tỷ
đồng
trở
lên
(có
thông
tin
nói,
số
người
này
lên
tới
hàng
trăm
ngàn).
Nói
cho
cùng
thì
trong
ba
nhóm
người
đó,
số
người
có
tài
sản
và
thu
nhập
cao
bất
thường
có
tỷ
lệ
cao
hơn
hẳn
so
các
nhóm
người
khác.
Thực
hiện
có
hiệu
quả
việc
kê
khai
TS,TN
đối
với
các
đối
tượng
này
thì
đây
chính
là
thắng
lợi
đột
phá
trong
cuộc
chiến
nóng
bỏng
PCTN.
Cũng
từ
đó,
việc
kê
khai
TS,TN
của
các
đối
tượng
khác
nhất
định
sẽ
được
tiến
hành
thuận
lợi
hơn.
Đây
cũng
là
chiến
thuật
“đầu
xuôi
đuôi
lọt”.
Sau
quá
trình
thực
thi
có
hiệu
quả
chắc
chắn
đối
với
các
đối
tượng
trên
thì
từng
bước
mở
rộng
diện,
“tiến
tới
tất
cả
đảng
viên
là
cán
bộ,
công
chức
đều
phải
kê
khai
tài
sản”
như
Nghị
quyết
Trung
ương
3
khóa
X
đã
định
hướng.
4.
Công
khai,
minh
bạch
bản
kê
khai
tài
sản,
thu
nhập
Báo
cáo
tổng
kết
10
năm
thi
hành
Luật
PCTN của
Chính
phủ
đã
chỉ
rõ,
tình
trạng
lạm
dụng
bảo
mật
thông
tin,
thiếu
công
khai,
minh
bạch
với
nhân
dân
và
trong
nội
bộ
vẫn
diễn
ra
ở
nhiều
nơi. Bản
chất
của
kết
luận
này
là,
không
ít
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị
và
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
(nhất
là
người
có
chức
vụ
cao,
quyền
hành
lớn)
không
muốn
công
khai,
minh
bạch
tài
sản.
Như
vậy
rõ
ràng
là
họ
có
vấn
đề,
không
“đàng
hoàng”
thì
mới
không
dám
công
khai.
Trong
khuyết
điểm
này
có
nguyên
nhân
từ
quy
định
của
Luật
PCTN
hiện
hành.
Điều
6.
Quyền
và
nghĩa
vụ
của
công
dân
trong
PCTN quy
định:
Công
dân
có
quyền
phát
hiện,
tố
cáo
hành
vi
tham
nhũng...
Điều
8.
Trách
nhiệm
của
Mặt
trận
Tổ
quốc
Việt
Nam
và
các
tổ
chức
thành
viên quy
định:
Mặt
trận
Tổ
quốc
Việt
Nam
và
các
tổ
chức
thành
viên
có
trách
nhiệm
động
viên
nhân
dân
tham
gia
tích
cực
vào
việc
PCTN;
phát
hiện,
kiến
nghị
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
xử
lý
người
có
hành
vi
tham
nhũng...
Nhưng
tới
Điều
46a.
Công
khai
bản
kê
khai
tài
sản lại
chỉ
quy
định:
Bản
kê
khai
tài
sản
của
người
có
nghĩa
vụ
kê khai
phải
được
công
khai
trong
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị
người
đó
thường
xuyên
làm
việc.
Nghĩa
là
Bản
kê
khai
tài
sản
của
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
chỉ
nội
bộ
nơi
làm
việc
biết
với
nhau.
Nhưng
ngay
cả
trong
nội
bộ
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị
cũng
khó
có
thể
công
khai,
vì
Điều
46a
quy
định
chỉ
có
hai
hình
thức
công
khai,
hoặc
là
công
bố
tại
cuộc
họp,
hoặc
là
niêm
yết
tại
trụ
sở.
Trên
thực
tế,
hầu
như
không
mấy
nơi
mà
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị
đem
cả
tệp
bản
kê
khai
ra
đọc
lần
lượt
từng
bản
của
từng
người
tại
cuộc
họp,
mà
nếu
có
đọc
thì
thông
tin
cũng
trượt
đi
như
“nước
đổ
lá
môn”.
Còn
niêm
yết
tại
trụ
sở
thì
có
nơi
này,
nơi
kia
thực
hiện
nhưng
không
mấy
ai
biết.
Nhiều
cơ
quan,
nhiều
tổng
công
ty...
có
nhiều
nơi
làm
việc,
trải
khắp
cả
nước
thì
niêm
yết
ở
đâu,
ai
đi
được
đến
đó
để
xem?
Đó
là
chưa
nói
đến
có
những
phòng
niêm
yết
phải
luôn
có
người
“hướng
dẫn”
trông
coi,
mà
thực
chất
là
canh
gác,
theo
dõi
xem
ai
đến
xem
và
đến
xem
để
làm
gì!
Tại
quy
định
của
Điều
6
và
Điều
8
nói
trên,
Luật
cho
phép
công
dân
có
quyền,
(thậm
chí
là
nghĩa
vụ)
phòng,
chống,
phát
hiện,
kiến
nghị
xử
lý
tham
nhũng,
nhưng
lại
không
cho
nhân
dân
biết
bản
kê
khai
tài
sản
và
thu
nhập
của
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
thì
có
khác
nào
đánh
đố
người
dân.
Giao
cho
Mặt
trận
Tổ
quốc
nhiệm
vụ
nặng
nề
như
thế,
nhưng
mỗi
tổ
chức
Mặt
trận
cùng
lắm
cũng
chỉ
biết
mọi
việc
trong
nội
bộ
tổ
chức
của
mình.
Như
vậy,
Luật
hiện
hành
đã
thiếu
tính
khả
thi
ngay
từ
khi
ban
hành,
do
mâu
thuẫn:
muốn
chống
tham
nhũng
nhưng
lại
không
muốn
công
khai,
minh
bạch
TS,TN
của
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
trước
nhân
dân.
Dự
thảo
Luật
PCTN
(sửa
đổi)
lần
này
phải
khắc
phục
cho
được
khiếm
khuyết
mâu
thuẫn
này.
Nghĩa
là,
tất
cả
các
bản
kê
khai
TS,TN
của
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
phải
được
công
khai,
minh
bạch
trước
nhân
dân;
trước
hết
là
tại
nơi
cư
trú
hợp
pháp
(thôn,
bản,
tổ
dân
phố
thuộc
xã,
phường,
thị
trấn;
chi
bộ
nơi
đảng
viên
sinh
hoạt
hai
chiều
phải
được
biết)
và
tại
địa
bàn
hoạt
động
thường
xuyên
của
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai.
Hoàn
toàn
có
thể
công
khai
giống
như
niêm
yết
danh
sách
cử
tri
trong
các
cuộc
bầu
cử
(như
ý
kiến
của
một
đại
biểu
Quốc
hội
đã
phát
biểu
tại
kỳ
họp
thứ
4
Quốc
hội
khóa
XIV:
“treo
ở
nơi
dân
có
thể
xem
được”).
Ngoài
ra
cũng
có
một
phương
án
khác
tuy
có
tốn
kém
hơn
chút
ít,
đó
là,
lập
một
website,
đưa
tất
cả
các
bản
kê
khai
tài
sản
và
thu
nhập
lên
đó,
ai
cần
nghiên
cứu,
tìm
hiểu
thì
truy
cập.
Rất
tiếc
là,
Dự
thảo
Luật
PCTN
(sửa
đổi)
lần
này
tuy
đã
thấy
rõ
nhược
điểm
căn
bản
nhưng
lại
không
sửa
chữa,
tức
là
vẫn
không
quy
định
về
công
khai,
minh
bạch
bản
kê
khai
tài
sản
và
thu
nhập
trước
nhân
dân.
Cụ
thể
là:
1.
Bản
kê
khai
TS,TN
của
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
phải
được
công
khai
tại
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị
nơi
người
đó
thường
xuyên
làm
việc.
2.
Bản
kê
khai
TS,TN
của
người
được
dự
kiến
bổ
nhiệm
giữ
chức
vụ
lãnh
đạo,
quản
lý
tại
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị
phải
được
công
khai
tại
cuộc
họp
lấy
phiếu
tín
nhiệm
khi
tiến
hành
quy
trình
bổ
nhiệm.
3.
Bản
kê
khai
TS,TN
của
người
ứng
cử
đại
biểu
Quốc
hội,
đại
biểu
HĐND
phải
được
công
khai
theo
quy
định
của
pháp
luật
về
bầu
cử.
4.
Bản
kê
khai
TS,TN
của
người
dự
kiến
được
bầu,
phê
chuẩn
tại
Quốc
hội,
HĐND
phải
được
công
khai
với
đại
biểu
Quốc
hội,
đại
biểu
HĐND
trước
khi
bầu,
phê
chuẩn.
Thời
điểm,
hình
thức
công
khai
được
thực
hiện
theo
quy
định
của
Ủy
ban
thường
vụ
Quốc
hội.
5.
Bản
kê
khai
TS,TN
của
người
dự
kiến
bầu
giữ
chức
vụ
lãnh
đạo,
quản
lý
tại
doanh
nghiệp
nhà
nước
được
công
khai
tại
cuộc
họp
lấy
phiếu
tín
nhiệm
khi
tiến
hành
bổ
nhiệm
hoặc
tại
cuộc
họp
của
Hội
đồng
Thành
viên
khi
tiến
hành
bầu
các
chức
vụ
lãnh
đạo,
quản
lý.
6.
Chính
phủ
quy
định
chi
tiết
về
thời
điểm,
hình
thức
công
khai
bản
kê
khai
TS,TN
tại
các
khoản
1,
2
và
5
Điều
này.
Vấn
đề
đáng
quan
tâm
nữa
là,
Dự
thảo
Luật
lần
này
đã
bỏ
hẳn
Điều
8
của
Luật
hiện
hành,
“Mặt
trận
Tổ
quốc
Việt
Nam
và
các
tổ
chức
thành
viên
có
trách
nhiệm
động
viên
nhân
dân
tham
gia
tích
cực
vào
việc
PCTN;
phát
hiện,
kiến
nghị
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
xử
lý
người
có
hành
vi
tham
nhũng;
giám
sát
việc
thực
hiện
pháp
luật
về
PCTN”.
Một
hệ
thống
cơ
quan
“đại
đoàn
kết
toàn
dân”
từ
trung
ương
đến
địa
phương,
có
chức
năng
giám
sát,
phản
biện,
vì
sao
lại
đưa
họ
ra
khỏi
công
cuộc
phòng,
chống
giặc
nội
xâm
-
tham
nhũng?
Vấn
đề
là,
Luật
PCTN
(sửa
đổi)
phải
có
điều,
khoản
quy
định
điều
kiện
để
họ
làm
tròn
sứ
mệnh
PCTN
chứ
không
phải
“gạt”
họ
ra.
Điều
kiện
đó
không
có
gì
khác
là
công
khai,
minh
bạch
hóa
bản
kê
khai
tài
sản
và
thu
nhập
của
người
có
nghĩa
vụ
phải
kê
khai
trước
nhân
dân.
Có
ý
kiến
nói
rằng,
công
khai
bản
kê
khai
TS,TN
trước
nhân
dân
là
vấn
đề
phức
tạp
nên
phải
thận
trọng
(ngụ
ý
là
chưa
nên
công
khai
trước
nhân
dân).
Có
lẽ
nên
đặt
ngược
lại
vấn
đề
là,
càng
để
lâu
không
công
khai
bản
kê
khai
TS,TN
trước
nhân
dân
thì
càng
tích
tụ
thêm
nhiều
dư
luận
phức
tạp,
càng
khó
khăn
cho
công
tác
PCTN,
do
đó
nên
cân
nhắc
phải
sớm
công
khai,
quy
định
ngay
vào
Luật
PCTN
(sửa
đổi)
lần
này
thì
hơn.
Lại
có
ý
kiến
biện
hộ
rằng,
đó
là
vấn
đề
“bí
mật
đời
tư”,
cần
tế
nhị.
Nhưng,
“cho
đến
nay,
pháp
luật
nước
ta
vẫn
chưa
có
quy
định
rõ
ràng
về
“bí
mật
đời
tư”
là
gì,
phạm
vi
của
“bí
mật
đời
tư”
như
thế
nào,
mà
chỉ
có
một
số
quy
định
về
vấn
đề
này
trong
Hiến
pháp
năm
2013;
Bộ
luật
Dân
sự
năm
2005;
Luật
Giao
dịch
điện
tử
năm
2005;
Bộ
luật
Hình
sự
năm
1999
(sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2009)”
[1].
Chúng
tôi
cũng
đã
xem
lại
Điều
21
Hiến
pháp
năm
2013,
Bộ
luật
Dân
sự;
Luật
Bảo
vệ
sức
khỏe
nhân
dân;
Bộ
luật
Hình
sự
năm
2015
(Luật
sửa
đổi,
bổ
sung
một
số
Điều
năm
2017),
trong
đó
có
Chương
XV.
Các
tội
xâm
phạm
quyền
tự
do
của
con
người,
quyền
tự
do,
dân
chủ
của
công
dân. Tất
cả
các
điều,
khoản
trong
các
đạo
luật
trên
cũng
chỉ
nói
đến
bí
mật
cá
nhân,
danh
dự,
uy
tín,
thư
tín,
điện
thoại,
trao
đổi
thông
tin...
mà
không
có
điều,
khoản
nào
nói
về
quyền
bảo
vệ
“bí
mật
tài
sản
cá
nhân”.
5.
Về
hai
phương
án
xử
lý
tài
sản,
thu
nhập
không
giải
trình
được
nguồn
gốc
Điều
59
của
Dự
thảo
Luật
PCTN
(sửa
đổi)
nêu
hai
phương
án
xử
lý
TS,TN
không
giải
trình
được
nguồn
gốc
một
cách
hợp
lý,
chúng
tôi
cho
rằng:
-
Phương
án
1
khoản
1
quy
định:
Trường
hợp
có
kết
luận
TS,TN
thực
tế
của
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
lớn
hơn
TS,TN
đã
kê
khai
hoặc
có
TS,TN
tăng
thêm
mà
người
kê
khai
không
giải
trình
được
một
cách
hợp
lý
về
nguồn
gốc
của
TS,TN
chênh
lệch
hoặc
tăng
thêm
đó
và
chưa
có
căn
cứ
xác
định
do
phạm
tội
mà
có,
thì
trong
thời
hạn
30
ngày,
kể
từ
ngày
ban
hành
Kết
luận
xác
minh
TS,TN,
cơ
quan,
đơn
vị
kiểm
soát
TS,TN
gửi
Kết
luận
xác
minh
TS,TN
đến
cơ
quan
quản
lý
thuế
có
thẩm
quyền
yêu
cầu
thực
hiện
việc
thu
thuế
thu
nhập
cá
nhân
theo
quy
định
của
pháp
luật
về
thuế.
-
Phương
án
2
khoản
1
quy
định:
Trường
hợp
kết
luận
TS,TN
thực
tế
của
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
lớn
hơn
TS,TN
đã
kê
khai
hoặc
có
TS,TN
tăng
thêm
mà
người
kê
khai
không
giải
trình
được
một
cách
hợp
lý
về
nguồn
gốc
của
TS,TN
chênh
lệch
hoặc
tăng
thêm
đó
và
chưa
có
căn
cứ
xác
định
do
phạm
tội
mà
có,
thì
trong
thời
hạn
30
ngày,
kể
từ
ngày
ban
hành
Kết
luận
xác
minh
TS,TN,
cơ
quan
có
thẩm
quyền
ra
quyết
định
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính
với
mức
phạt
tiền
bằng
45%
giá
trị
của
phần
TS,TN
chênh
lệch
hoặc
tăng
thêm.
Trước
hết,
có
thể
nói
rằng,
TS,TN
không
được
kê
khai
(của
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai)
về
cơ
bản
là
bất
minh.
Và
trong
số
tài
sản
bất
minh
thì
tài
sản
tham
nhũng
là
chủ
yếu.
Sẽ
có
ý
kiến
biện
minh
rằng,
nguồn
gốc
số
TS,TN
lớn
hơn
hay
tăng
thêm là
do
bạn
bè
tặng
cho;
bố
mẹ
có
của
nhưng
không
có
di
chúc,
cũng
không
trăng
trối
lại...
nên
không
thể
kê
khai.
Chúng
tôi
cho
rằng,
bạn
bè,
người
thân
tặng
cho;
của
cải
bố
mẹ
để
lại
(nếu
không
có
di
chúc
thì
sẽ
được
Tòa
án
xử
lý
theo
pháp
luật)
đều
là
tài
sản
có
nguồn
gốc
(nguồn
gốc
là
được
tặng
cho,
nguồn
gốc
là
được
chia
thừa
kế).
Chỉ
có
TS,TN
“mờ
ám”
hoặc
là
tham
nhũng,
hoặc
là
được
trả
công
để
làm
việc
phi
pháp...
thì
mới
không
dám
kê
khai.
Do
vậy,
hai
phương
án
Dự
thảo
Luật
đưa
ra
nói
trên
đều
không
khả
thi,
nếu
không
muốn
nói
là
kỳ
lạ.
Kỳ
lạ
vì,
cả
hai
phương
án
đều
nghiễm
nhiên
thừa
nhận
“sự
ăn
chia”
giữa
Nhà
nước
và
kẻ
tham
nhũng.
Sao
lại
có
sự
thỏa
thuận
trớ
trêu
như
vậy?
Do
quản
lý
yếu
kém
mà
Nhà
nước
mất
tài
sản,
rồi
Nhà
nước
lại
đặt
ra
một
thứ
thuế
ở
cả
hai
phương
án
để
lấy
lại
một
phần
tài
sản
đã
mất
(45%
ở
phương
án
2).
Trong
công
tác
thuế,
Nhà
nước
vẫn
có
chủ
trương
“nuôi
dưỡng
nguồn
thu”,
không
lẽ
lại
“nuôi
dưỡng
tham
nhũng”
để
tăng
thu?
Chúng
ta
có
thể
tham
khảo
cách
làm
(kinh
nghiệm)
của
một
số
nước
đã
và
đang
xử
lý
việc
này
[2]:
-
Ở
Liên
bang
Nga,
khi
những
công
chức
và
những
người
có
liên
quan
không
đưa
ra
được
những
thông
tin
chứng
minh
những
tài
sản
có
được
là
hợp
pháp,
thì
cơ
quan
công
tố
sẽ
khởi
kiện
vụ
án
dân
sự
để
chuyển
giao
tài
sản
đã
có
được
cho
Nhà
nước
(Luật
này
bắt
đầu
thi
hành
từ
ngày
3/12/2012).
-
Ở
Singapore,
Điều
165
Bộ
luật
Hình
sự
năm
2007
quy
định:
với
loại
tài
sản
lớn
hơn
TS,TN
đã
kê
khai
hoặc
có
TS,TN
tăng
thêm
mà
người
kê
khai
không
giải
trình
được
một
cách
hợp
lý
về
nguồn
gốc
thì
người
kê
khai
“sẽ
bị
phạt
tù
đến
2
năm,
phạt
tiền
hoặc
cả
hai
hình
phạt”.
-
Ở
Trung
Quốc,
Điều
395
Luật
Hình
sự
năm
2011
quy
định:
Bất
kỳ
công
chức
nào
có
tài
sản
hoặc
chi
tiêu
rõ
ràng
vượt
quá
thu
nhập
hợp
pháp,
nếu
có
sự
khác
biệt
thì
có
thể
bị
yêu
cầu
giải
thích
về
nguồn
gốc
tài
sản
của
người
đó.
Nếu
công
chức
không
thể
giải
thích
được
về
nguồn
gốc
hợp
pháp
của
tài
sản,
thì
phần
tài
sản
vượt
quá
thu
nhập
hợp
pháp
của
họ
sẽ
bị
coi
là
tài
sản
bất
hợp
pháp,
và
bị
phạt
tù
đến
05
năm
hoặc
cải
tạo
không
giam
giữ
và
tài
sản
vượt
quá
thu
nhập
hợp
pháp
sẽ
bị
tịch
thu.
Trở
lại
dự
thảo
Luật
PCTN
(sửa
đổi)
của
chúng
ta,
theo
chúng
tôi,
tài
sản
bất
minh
(trong
đó
chủ
yếu
là
tài
sản
tham
nhũng)
thì
phương
án
tốt
nhất,
khả
thi
nhất
là
phải
sung
công (cho
dù
có
thể
phải
sửa
đổi,
bổ
sung
một
vài
điều
của
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự,
Bộ
luật
Tố
tụng
dân
sự...
song
việc
này
hoàn
toàn
trong
tầm
tay
của
cơ
quan
lập
pháp)./.
Bài
viết
được
đăng
trên
Tạp
chí
Nghiên
cứu
lập
pháp
số
12,
kỳ
2
tháng
6/2018
[1] Dẫn
từ
Cổng
thông
tin
Bộ
Tư
pháp,
ngày
8/4/2016.
[2] Thư
viện
Quốc
hội,
Xử
lý
hành
vi
làm
giàu
bất
chính
theo
Công
ước
của
Liên
hiệp
quốc;
tài
liệu
tham
khảo;
Hà
Nội, tháng
5/2018.