Ảnh
minh
họa:
Nguồn
internet
1.
Đặt
vấn
đề
Việc
phát
hiện
và
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
được
thực
hiện
có
hiệu
quả
sẽ
là
đòn
giáng
mạnh
vào
tâm
lý
tội
phạm
tham
nhũng,
ngăn
chặn
động
cơ
tham
nhũng
và
khôi
phục
nền
công
lý
ở
mỗi
quốc
gia.
Quan
trọng
hơn
cả,
tài
sản
tham
nhũng
được
thu
hồi
sẽ
góp
phần
khắc
phục
một
phần
hoặc
toàn
bộ
thiệt
hại
mà
hành
vi
tham
nhũng
đã
gây
ra
cho
cơ
quan
nhà
nước,
tổ
chức,
cá
nhân.
Với
ý
nghĩa
đó,
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
đóng
vai
trò
quan
trọng,
là
một
yếu
tố
chính
của
chiến
lược
phòng,
chống
tham
nhũng
của
bất
kỳ
quốc
gia
nào.
Ở
góc
độ
quốc
tế,
đặc
biệt
là
sau
khi
Công
ước
Liên
hợp
quốc
về
chống
tham
nhũng
năm
2003
(UNCAC)
có
hiệu
lực,
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
đã
ngày
càng
trở
nên
quan
trọng
hơn
trong
các
chương
trình
nghị
sự
quốc
tế.
Đây
cũng
là
một
trong
những
nội
dung
sẽ
được
đưa
vào
Chu
trình
đánh
giá
lần
thứ
hai
về
việc
thực
thi
Công
ước
này
của
các
quốc
gia
thành
viên.
Hiện
nay,
các
quốc
gia
sử
dụng
bốn
phương
thức
cơ
bản
để
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
là:
(1)
Thu
hồi
tài
sản
dựa
trên
truy
tố
hình
sự;
(2)
Thu
hồi
tài
sản
không
dựa
trên
bản
án
hình
sự;
(3)
Thu
hồi
tài
sản
thông
qua
quyết
định
hành
chính
và
(4)
Khởi
kiện
dân
sự
để
thu
hồi
tài
sản.
Trong
đó,
phương
thức
thu
hồi
tài
sản
dựa
trên
quy
trình
khởi
kiện
dân
sự
được
UNCAC
khuyến
nghị
các
quốc
gia
nghiên
cứu
để
áp
dụng:
“Mỗi
quốc
gia
thành
viên,
căn
cứ
vào
pháp
luật
quốc
gia
sẽ
tiến
hành
các
biện
pháp
cần
thiết
cho
phép
quốc
gia
thành
viên
khác
khởi
kiện
vụ
án
dân
sự
tại
toà
án
để
xác
định
quyền
hay
quyền
sở
hữu
đối
với
tài
sản
có
được
qua
việc
thực
hiện
các
tội
được
quy
định
trong
Công
ước
này” (Điều
53(a)).
Đồng
thời,
sáng
kiến
thu
hồi
tài
sản
bị
đánh
cắp
(StAR)
do
Ngân
hàng
thế
giới
và
Cơ
quan
Phòng,
chống
ma
tuý
và
tội
phạm
của
Liên
hợp
quốc
đã
đưa
ra
các
hướng
dẫn
chi
tiết
và
thực
tiễn
tốt
cho
việc
nghiên
cứu
và
vận
dụng
phương
thức
này
[2].
2.
Rào
cản
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
theo
thủ
tục
hình
sự
và
ưu
điểm
khởi
kiện
dân
sự
để
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
Để
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
theo
thủ
tục
hình
sự,
các
quốc
gia
theo
thông
luật
(Common
Law)
yêu
cầu
phải
có
phán
quyết
của
tòa
án
dựa
trên
những
bằng
chứng
được
cho
là không
còn
lý
do
chính
đáng
để
nghi
ngờ (beyond
a
reasonable
doubt)hoặc
buộc
tội
chắc
chắn.
Để
chứng
minh
mối
liên
hệ
giữa
tài
sản
và
tội
phạm,
một
số
quốc
gia
theo
thông
luật
đòi
hỏi
các
bằng
chứng
theo
tiêu
chuẩn có
xác
suất
phải
chăng hay
xác
suất
đúng
nhiều
hơn
là
không
đúng (balance
of
probabilities);
trong
khi
một
số
quốc
gia
khác
lại
đòi
hỏi
bằng
chứng
được
cho
là
không
còn
lý
do
chính
đáng
để
nghi
ngờ.
Tiêu
chuẩn
về
bằng
chứng
có
xác
suất
phải
chăng
được
áp
dụng
trong
các
vụ
án
thu
hồi
theo
thủ
tục
dân
sự.
Chứng
minh
tội
phạm
theo
các
chuẩn
mực
hình
sự
có
thể
gây
khó
khăn
cho
các
vụ
án
tham
nhũng.
Ở
một
số
quốc
gia,
các
công
tố
viên
phải
chứng
minh
hành
vi
hối
lộ
được
thực
hiện
để
tạo
điều
kiện
cho
một
thỏa
thuận
tham
nhũng
giữa
người
đưa
hối
lộ
và
một
công
chức;
bằng
chứng
trong
một
vụ
án
như
vậy
rất
khó
xác
định.
Tiêu
chuẩn
về
chứng
cứ
được
thừa
nhận
giữa
các
quốc
gia
thành
viên
của
UNCAC
linh
hoạt
hơn:
Điều
28
UNCAC
yêu
cầu
các
quốc
gia
thành
viên
đảm
bảo
rằng “Ý
thức,
ý
định
hoặc
mục
đích
là
các
yếu
tố
cấu
thành
của
một
tội
phạm
được
quy
định
theo
Công
ước
này
có
thể
được
suy
đoán
từ
hoàn
cảnh
thực
tế
khách
quan”.
Dù
sao,
yêu
cầu
tòa
án
phải
kết
án
hình
sự
để
thu
hồi
tài
sản
là
một
rào
cản
đáng
kể,
đặc
biệt
là
khi
bị
cáo
đã
chết
hoặc
chạy
trốn.
Thêm
vào
đó,
việc
đưa
ra
chứng
cứ
để
khẳng
định
chắc
chắn
hoặc
thuyết
phục
thẩm
phán
tin
tưởng
hoàn
toàn
rằng
có
mối
liên
hệ
giữa
tài
sản
và
một
tội
phạm
cụ
thể
(các
quốc
gia
theo
thông
luật)
rất
khó
khăn.
Các
nhà
hoạt
động
thực
tiễn
chỉ
ra
rằng,
việc
không
đáp
ứng
được
những
yêu
cầu
này
khiến
công
tác
thu
hồi
tài
sản
thường
đi
đến
thất
bại.
Việc
áp
dụng
kiện
dân
sự
để
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
không
có
nghĩa
làm
giảm
đi
vai
trò
quan
trọng
của
biện
pháp
hình
sự
trong
việc
xử
lý
hành
vi
tham
nhũng
và
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng.
Tuy
nhiên,
bồi
thường
thiệt
hại
theo
pháp
luật
dân
sự
có
thể
bổ
sung
hiệu
quả
cho
các
chế
tài
hình
sự.
Việc
lựa
chọn
con
đường
khởi
kiện
dân
sự
để
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
được
luận
giải
bởi
những
lý
do
sau:
Thứ
nhất, biện
pháp
hình
sự
thường
không
giải
quyết
được
một
số
hậu
quả
của
tham
nhũng.
Cho
dù,
người
vi
phạm
phải
bị
xử
lý
hình
sự
và
chịu
trách
nhiệm
cá
nhân
về
những
thiệt
hại
do
người
này
gây
ra
cho
xã
hội,
nhưng
tham
nhũng
gây
thiệt
hại
rõ
ràng
cho
các
chủ
thể
khác.
Các
chủ
thể
này,
gồm
các
cá
nhân
và
pháp
nhân,
có
quyền
đòi
lại
các
tài
sản
đã
mất
và/
hoặc
nhận
bồi
thường
đối
với
thiệt
hại
bị
ảnh
hưởng.
Khởi
kiện
dân
sự
không
những
cung
cấp
biện
pháp
trực
tiếp
và
hiệu
quả
để
bồi
thường
cho
các
nạn
nhân
về
những
thiệt
hại
mà
họ
phải
chịu,
mà
còn
chứng
tỏ
giá
trị
trong
việc
ngăn
chặn
các
hành
vi
tham
nhũng
tiếp
diễn
bởi
nó
ngăn
chặn
chủ
thể
tham
nhũng
có
được
các
khoản
tiền
bất
chính;
bởi
vậy,
nó
ngăn
chặn
được
mục
tiêu
cơ
bản
nhất
của
hành
vi
tham
nhũng.
Thứ
hai, các
vụ
kiện
dân
sự
thường
đặc
biệt
hữu
ích
để
xử
lý
các
hậu
quả
về
tài
chính
của
tham
nhũng
trong
các
trường
hợp
các
hành
vi
tham
nhũng
đã
được
thực
hiện
trong
một
thời
gian
dài;
thậm
chí
một
vài
hay
tất
cả
hành
vi
tham
nhũng
đã
được
chứng
minh
tại
phiên
tòa,
nhưng
có
thể
gần
như
không
thể
truy
tìm
tất
cả
tài
sản
tham
nhũng
bởi
các
tài
liệu,
bằng
chứng
không
đầy
đủ.
Trong
các
vụ
án
hình
sự,
nếu
giữa
tội
phạm
cụ
thể
và
tài
sản
không
thể
xác
lập
mối
liên
hệ
trực
tiếp,
thì
việc
tịch
thu
tài
sản
sẽ
có
rất
nhiều
khó
khăn;
trong
khi
đó,
các
tiêu
chuẩn
bằng
chứng
ở
phiên
tòa
dân
sự
thường
thấp
hơn
so
với
tố
tụng
hình
sự.
Thứ
ba, việc
yêu
cầu
bồi
thường
thiệt
hại
nói
chung
trong
vụ
kiện
dân
sự
có
thể
giải
quyết
được
một
số
khó
khăn
về
bằng
chứng
khi
khó
xác
định
sự
liên
hệ
giữa
tài
sản
và
hành
vi
vi
phạm
theo
các
tiêu
chuẩn
bằng
chứng
hình
sự
(khi
việc
xác
lập
sự
liên
hệ
trực
tiếp
giữa
hành
vi
tham
nhũng
và
tài
sản
là
không
thể
hoặc
rất
khó
khăn).
Chẳng
hạn,
số
lượng
lớn
tài
sản
tham
nhũng
được
chi
dùng
ở
những
nơi
cách
xa
quốc
gia
mà
tài
sản
đó
bị
đánh
cắp;
tài
sản
tham
nhũng
được
tẩy
rửa
qua
nhiều
giao
dịch,
cuối
cùng
mua
bất
động
sản,
đầu
tư
kinh
doanh
hoặc
mua
những
đồ
có
giá
trị.
Trong
trường
hợp
này,
khởi
kiện
dân
sự
vẫn
có
cơ
hội
thành
công,
thủ
tục
dân
sự
có
thể
quy
định
một
khoản
bồi
thường
bởi
việc
khởi
kiện
đối
với
những
thiệt
hại
nói
chung.
Thứ
tư, khởi
kiện
dân
sự
và
bồi
thường
dân
sự
có
thể
mở
rộng
phạm
vi
các
đối
tượng
bị
đơn
và
trách
nhiệm,
nghĩa
là
“mở
rộng
các
khoản
tiền”
bị
kiện.
Khi
áp
dụng
biện
pháp
kiện
dân
sự
để
thu
hồi
tài
sản,
người
khởi
kiện
có
sự
linh
hoạt
hơn
trong
việc
khởi
kiện
đòi
tiền
và
tài
sản
thuộc
bên
thứ
ba
-
có
thể
gồm
bất
kỳ
ai
hỗ
trợ
cho
bị
đơn
chính
-
như
các
thành
viên
gia
đình
và
các
đồng
nghiệp,
luật
sư,
các
ngân
hàng,
người
điều
hành
ngân
hàng.
Thứ
năm, ở
những
nước
không
áp
dụng
trách
nhiệm
hình
sự
pháp
nhân,
bồi
thường
dân
sự
và
khởi
kiện
dân
sự
được
xem
như
một
biện
pháp
thu
hồi
các
khoản
tiền
tham
nhũng.
Thứ
sáu, đối
với
những
vụ
án
xuyên
biên
giới,
khởi
kiện
dân
sự
giúp
quốc
gia
có
khả
năng
kiểm
soát
quá
trình
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
tốt
hơn
so
với
việc
yêu
cầu
nước
có
liên
quan
áp
dụng
biện
pháp
hình
sự.
3.
Các
hình
thức
khởi
kiện
để
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
3.1.
Khởi
kiện
khẳng
định
quyền
sở
hữu
Ở
hầu
hết
các
nước,
tài
sản
bị
biển
thủ
và
các
khoản
hối
lộ
quan
chức
chính
phủ
có
thể
bị
kiện
để
tìm
kiếm
sự
bồi
thường
với
tư
cách
là
chủ
sở
hữu
hợp
pháp
và
thực
sự.
Trong
vụ
án
Tổng
Chưởng
lý
Hồng
Kông
kiện
Reid
(1994)
[3],
Uỷ
ban
Chống
tham
nhũng
độc
lập
của
Đặc
khu
hành
chính
Hồng
Kông
đã
tìm
cách
thu
hồi
tài
sản
New
Zealand
do
một
cựu
Công
tố
viên,
ông
Warwick
Reid,
mua.
Việc
mua
tài
sản
đó
được
ông
này
thực
hiện
bằng
tiền
hối
lộ;
ông
ta
đã
nhận
hối
lộ
để
đổi
lại
việc
không
truy
tố
một
số
người
phạm
tội.
Hai
bất
động
sản
do
ông
ta
và
vợ
đứng
tên,
một
bất
động
sản
khác
do
luật
sư
của
ông
ta
đứng
tên.
Thẩm
phán
ra
phán
quyết
rằng
những
bất
động
sản
này
là
hiện
thân
của
các
khoản
hối
lộ
mà
Reid
đã
nhận
nên
được
Reid
nắm
giữ
nhân
danh
Hoàng
gia.
Toà
án
lý
giải:
Khi
một
người
được
uỷ
thác
đã
vi
phạm
chức
trách
nhiệm
vụ
thực
hiện
việc
nhận
hối
lộ,
người
này
giữ
khoản
hối
lộ
đó
thay
cho
người
mà
trước
người
đó
anh
ta
phải
chịu
trách
nhiệm.
Nếu
tài
sản
là
hiện
thân
của
khoản
hối
lộ
đó
bị
giảm
giá
trị,
người
được
uỷ
thác
phải
trả
số
tiền
chênh
lệch
giữa
giá
trị
đó
và
số
tiền
hối
lộ
ban
đầu;
bởi
vì,
ông
ta
đã
không
được
phép
nhận
khoản
hối
lộ
đó.
Nếu
tài
sản
đó
tăng
giá
trị,
người
được
uỷ
thác
không
có
quyền
sở
hữu
đối
với
bất
kỳ
khoản
tăng
thêm
nào
so
với
số
tiền
hối
lộ
ban
đầu,
vì
ông
ta
không
được
phép
kiếm
lợi
nhuận
từ
việc
vi
phạm
nghĩa
vụ
trách
nhiệm
của
mình.
3.2.
Khởi
kiện
đòi
bồi
thường
Theo
UNCAC,
các
quốc
gia
thành
viên
cần
cho
phép
yêu
cầu
tương
trợ
tư
pháp
đòi
bồi
thường
cho
những
thiệt
hại
do
hành
vi
tham
nhũng
gây
ra.
Tiền
bồi
thường
được
trả
cho
bên
nguyên
đơn
để
bồi
thường
cho
sự
mất
mát,
thương
tổn
hoặc
thiệt
hại
do
sự
vi
phạm
chức
trách
nhiệm
vụ
trực
tiếp
gây
ra,
bao
gồm
sai
phạm
hình
sự,
hành
vi
ứng
xử
phi
đạo
đức
và
sai
sót
tiền
hợp
đồng.
Khi
một
hành
vi
tham
nhũng
đã
xảy
ra,
nguyên
đơn
phải
chứng
minh
rằng
mình
đã
chịu
những
thiệt
hại
có
thể
bồi
thường,
rằng
bị
đơn
đã
vi
phạm
chức
trách
nhiệm
vụ
và
rằng
có
mối
liên
hệ
nhân
quả
giữa
tham
nhũng
và
thiệt
hại.
Pháp
nhân
và
cá
nhân
tham
gia
trực
tiếp
và
có
chủ
ý
vào
hành
vi
tham
nhũng
phải
chịu
trách
nhiệm
chính
về
bồi
thường
thiệt
hại.
Ngoài
ra,
toà
án
có
thể
quy
trách
nhiệm
cho
cả
những
người
hỗ
trợ
thực
hiện
hành
vi
tham
nhũng
hoặc
những
người
không
thực
hiện
các
bước
đi
phù
hợp
để
ngăn
ngừa
tham
nhũng.
Những
đối
tượng
này
có
thể
là
các
luật
sư
hoặc
bên
trung
gian
đã
hỗ
trợ
cho
các
hành
vi
tham
nhũng
hoặc
những
công
ty
mẹ
và
chủ
doanh
nghiệp
đã
không
có
sự
kiểm
soát
phù
hợp
đối
với
các
công
ty
chi
nhánh
hoặc
nhân
viên
của
mình.
Ở
một
số
nước
theo
hệ
thống
dân
luật
(Civil
Law),
bất
kỳ
người
nào
chịu
thiệt
hại
trực
tiếp
bởi
một
tội
phạm
có
thể
khởi
kiện
đòi
bồi
thường
thiệt
hại
tại
toà
án
dân
sự
hoặc
toà
án
hình
sự
sau
khi
một
bị
cáo
đã
bị
kết
tội.
3.3.
Khởi
kiện
dựa
trên
tính
vô
hiệu
của
hợp
đồng
hoặc
vi
phạm
hợp
đồng
Tính
vô
hiệu
của
hợp
đồng
được
dựa
trên
căn
cứ
rằng,
hợp
đồng
có
được
là
do
gian
lận
và
sự
đồng
thuận
bị
tác
động
bởi
tham
nhũng.
Vi
phạm
hợp
đồng
cũng
là
một
căn
cứ
cho
việc
khởi
kiện,
đặc
biệt
khi
hợp
đồng
chứa
đựng
những
điều
khoản
cam
kết
của
nhà
thầu
không
đưa
bất
kỳ
khoản
tiền
đút
lót
nào
cho
các
cá
nhân
liên
quan
đến
việc
trúng
thầu
hay
thực
hiện
hợp
đồng.
Việc
vi
phạm
điều
cấm
cụ
thể
này
mang
lại
cho
nguyên
đơn
quyền
chấm
dứt
hợp
đồng,
tránh
được
trách
nhiệm
của
chính
mình
và
đòi
bồi
thường
thiệt
hại.
Vụ
án
Fyffes
kiện
Templeman
và
những
người
khác
(2000)
[4]:
Fyffes
là
công
ty
kinh
doanh
chuối
đã
kiện
một
nhân
viên
của
công
ty,
người
chịu
trách
nhiệm
đàm
phán
một
thoả
thuận
dịch
vụ
với
một
nhà
thầu
vận
chuyển,
đã
nhận
hối
lộ
hơn
1,4
triệu
đô
la
trong
thời
gian
từ
năm
1992
đến
1996.
Khoản
hối
lộ
bị
phát
hiện
khi
Cơ
quan
thu
thuế
nội
địa
Hoa
Kỳ
được
báo
cho
biết
về
những
khoản
thanh
toán
không
kê
khai
mà
nhân
viên
này
nhận
ở
Hoa
Kỳ
từ
một
công
ty
hợp
nhất
ở
Cộng
hoà
Síp.
Fyffes
tìm
cách
thu
hồi
thiệt
hại
từ
nhân
viên
đó,
công
ty
vận
chuyển
và
các
đại
lý
của
công
ty
vận
chuyển.
Tất
cả
các
bị
cáo
được
xác
định
cùng
chịu
trách
nhiệm
về
giá
trị
khoản
hối
lộ.
Toà
án
phán
quyết
rằng
“chắc
chắn
nhà
thầu
đã
xem
xét
việc
đưa
hối
lộ
khi
chấp
nhận
số
cước
phí
mỗi
năm,
mà
Fyffes
sẽ
phải
trả
ít
hơn
nếu
họ
chỉ
phải
trả
khoản
phí
thực
mà
nhà
thầu
có
thể
chấp
nhận”.
Công
ty
vận
chuyển
và
các
đại
lý
của
công
ty
này
chịu
trách
nhiệm
trả
khoản
bồi
thường
bổ
sung
cho
tổn
hại
mà
Fyffes
đã
phải
chịu
khi
ký
hợp
đồng
với
những
điều
khoản
bất
lợi.
Đối
với
từng
năm,
Toà
án
xác
định
số
tiền
mà
Fyffes
phải
trả
nếu
nhân
viên
đại
diện
đàm
phán
trung
thực
và
kỹ
lưỡng.
Theo
đó,
các
khoản
thanh
toán
đã
bị
thổi
phồng
lên
830.022
đô
la
vào
năm
1993
và
1,1
triệu
đô
la
vào
năm
1996.
3.4.
Khởi
kiện
căn
cứ
trên
hành
vi
làm
giàu
bất
hợp
pháp
hoặc
làm
giàu
không
công
bằng
Khởi
kiện
đòi
lại
hoặc
đòi
đền
bù
các
lợi
ích
có
được
từ
các
hành
vi
bất
hợp
pháp
và
phi
đạo
đức
xuất
phát
từ
nguyên
tắc:
Không
ai
được
phép
hưởng
lợi
từ
việc
làm
sai
trái
của
mình
hoặc
từ
hành
vi
làm
giàu
bất
hợp
pháp
hoặc
làm
giàu
không
công
bằng.
Tòa
án
có
thể
ra
phán
quyết
buộc
bị
cáo
phải
trả
lại
các
lợi
ích
bất
hợp
pháp,
kể
cả
khi
nạn
nhân
không
chịu
thiệt
hại
hoặc
không
chịu
bất
kỳ
bất
lợi
nào
khác.
Ở
Hoa
Kỳ,
thông
thường,
thu
hồi
lợi
ích
có
được
từ
các
hành
vi
sai
trái
hoặc
làm
giàu
bất
hợp
pháp
được
Ủy
ban
Tỷ
giá
và
Chứng
khoán
và
Bộ
Tư
pháp
tiến
hành
qua
các
vụ
kiện
dân
sự
hoặc
vụ
án
hình
sự
nhằm
thực
thi
Luật
Chống
các
hành
vi
tham
nhũng
nước
ngoài.
4.
Một
số
khuyến
nghị
cho
Việt
Nam
Bộ
luật
Dân
sự
năm
2015
(BLDS)
không
quy
định
trực
tiếp
về
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng.
Các
quy
định
liên
quan
đến
việc
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
được
thể
hiện
trong
các
điều
luật
quy
định
về
quyền
của
chủ
sở
hữu
đối
với
tài
sản;
xác
định
quyền
của
chủ
sở
hữu
trong
việc
đòi
lại
các
tài
sản
bị
chiếm
đoạt
bất
hợp
pháp;
đòi
bồi
thường
thiệt
hại
về
tài
sản
do
hành
vi
xâm
phạm
gây
ra;
nghĩa
vụ
hoàn
trả
tài
sản
do
chiếm
hữu,
sử
dụng,
được
lợi
về
tài
sản
không
có
căn
cứ
pháp
luật,
giúp
cho
tài
sản
bị
tham
nhũng
được
hoàn
trả
về
đúng
chủ
sở
hữu.
Như
vậy,
trong
các
trường
hợp
tài
sản
bị
chiếm
đoạt
bất
hợp
pháp;
bị
thiệt
hại
do
hành
vi
xâm
phạm
trái
pháp
luật
gây
ra
(trong
đó
có
hành
vi
tham
nhũng);
bị
chiếm
hữu,
sử
dụng,
được
lợi
không
có
căn
cứ
pháp
luật
(trong
đó
có
những
tài
sản
có
nguồn
gốc
từ
tham
nhũng),
thì
chủ
sở
hữu
có
quyền
đề
nghị
cơ
quan
có
thẩm
quyền
áp
dụng
các
quy
định
của
Bộ
luật
Dân
sự
để
đòi
lại
các
tài
sản
bị
chiếm
đoạt
bất
hợp
pháp;
đòi
bồi
thường
thiệt
hại
về
tài
sản
do
hành
vi
xâm
phạm
gây
ra;
yêu
cầu
hoàn
trả
tài
sản
do
chiếm
hữu,
sử
dụng,
được
lợi
về
tài
sản
không
có
căn
cứ
pháp
luật
[5].
Về
thẩm
quyền
giải
quyết
các
tranh
chấp
về
tài
sản,
Bộ
luật
Tố
tụng
dân
sự
năm
2015
(Bộ
luật
TTDS)
quy
định
những
loại
tranh
chấp
dân
sự
thuộc
thẩm
quyền
giải
quyết
của
Toà
án,
trong
đó
có
tranh
chấp
về
quyền
sở
hữu
tài
sản.
Như
vậy,
trong
các
trường
hợp
phát
sinh
các
tranh
chấp
về
quyền
sở
hữu
tài
sản
nói
chung,
trong
đó
có
các
tài
sản
tham
nhũng
thì
thẩm
quyền
giải
quyết
là
của
Tòa
án.
Về
quyền
khởi
kiện
vụ
án
dân
sự
để
bảo
vệ
quyền
và
lợi
ích
hợp
pháp
của
người
khác,
lợi
ích
công
cộng
và
lợi
ích
của
Nhà
nước,
khoản
4
Điều
18
Bộ
luật
TTDS
quy
định: “Cơ
quan,
tổ
chức
trong
phạm
vi
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
của
mình
có
quyền
khởi
kiện
vụ
án
dân
sự
để
yêu
cầu
Tòa
án
bảo
vệ
lợi
ích
công
cộng,
lợi
ích
của
Nhà
nước
thuộc
lĩnh
vực
mình
phụ
trách
hoặc
theo
quy
định
của
pháp
luật”.
Như
vậy,
khi
có
các
hành
vi
tham
nhũng
xâm
phạm
tới
quyền,
lợi
ích
của
Nhà
nước
thuộc
lĩnh
vực
mà
mình
phụ
trách
thì
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị
có
quyền
khởi
kiện
vụ
án
dân
sự
để
yêu
cầu
Toà
án
bảo
vệ.
Nhìn
chung,
những
quy
định
liên
quan
tới
việc
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
được
quy
định
trong
Bộ
luật
TTDS
chủ
yếu
là
các
quy
định
về
thẩm
quyền
khởi
kiện
các
vụ
án
dân
sự
để
bảo
vệ
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
Nhà
nước
khi
bị
các
hành
vi
tham
nhũng
xâm
phạm;
trình
tự,
thủ
tục
áp
dụng
các
biện
pháp
khẩn
cấp
tạm
thời;
cũng
như
việc
giải
quyết
các
tranh
chấp
về
tài
sản
nói
chung,
trong
đó
có
tài
sản
tham
nhũng,
nhằm
trả
lại
tài
sản
về
cho
chủ
sở
hữu
hợp
pháp
[6].
Như
vậy,
căn
cứ
quy
định
của
BLDS,
Bộ
luật
TTDS,
chúng
ta
có
thể
sử
dụng
biện
pháp
khởi
kiện
dân
sự
để
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng.
Tuy
nhiên,
trong
thực
tiễn
xét
xử,
chưa
có
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
nào
khởi
kiện
dân
sự
để
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng.
Có
nhiều
nguyên
nhân
dẫn
đến
thực
tế
này,
trong
đó
có
nguyên
nhân
là
do
quy
định
của
pháp
luật
làm
cơ
sở
cho
việc
khởi
kiện
dân
sự
để
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
còn
chưa
rõ
ràng,
chưa
đồng
bộ,
thiếu
thống
nhất.
Để
khắc
phục
tình
trạng
trên,
chúng
tôi
cho
rằng,
cần
nghiên
cứu,
hoàn
thiện
các
quy
định
của
BLDS
và
Bộ
luật
TTDS
theo
hướng
sửa
đổi,
bổ
sung
quy
định
về
trách
nhiệm
của
cơ
quan,
tổ
chức
được
giao
quản
lý
tài
sản
thuộc
sở
hữu
nhà
nước
trong
việc
khởi
kiện
vụ
án
dân
sự
để
đòi
lại
những
tài
sản
thuộc
quyền
quản
lý
của
cơ
quan,
tổ
chức
nhưng
bị
hành
vi
tham
nhũng
xâm
phạm;
trong
trường
hợp
cơ
quan,
tổ
chức
sở
hữu
tài
sản
nhà
nước
bị
tham
nhũng
không
khởi
kiện
vụ
án,
cho
phép
bên
thứ
ba
khởi
kiện
vụ
án
dân
sự
đòi
lại
tài
sản
hoặc
bồi
thường
thiệt
hại
tài
sản
này./.
[1] Báo
cáo
số
372/BC-CP
ngày
30/8/2019
của
Chính
phủ.
[2] Tham
khảo
ba
tài
liệu:
Asset
Recovery
Handbook:
A
Guide
for
Practitioners; Public
Wrongs,
Private
Actions:
Civil
Lawsuits
to
Recover
Stolen
Assets và
A
Good
Practices
Guide
for
Non-Conviction
Based
Asset
Forfeiture trong
bộ
tài
liệu
“Sáng
kiến
thu
hồi
tài
sản
bị
đánh
cắp”
(StAR)
của
Ngân
hàng
thế
giới
và
Cơ
quan
Phòng,
chống
ma
tuý
và
tội
phạm
của
Liên
hợp
quốc.
[3] Tổng
Chưởng
lý
Hồng
Kông
kiện
Reid
[1994]
1
AC
324
PC
(Anh).
[4] Vụ
án
Fyffes
Group
Ltd.
kiện
Templeman
[2000]
2
Lloyd's
Rep
643
(Anh).
[5] Ban
Nội
chính
Trung
ương
(2015),
Báo
cáo
Thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
–
Thực
tiễn
Việt
Nam
và
Kinh
nghiệm
quốc
tế, tr.
45.
[6] Ban
Nội
chính
Trung
ương
(2015),
Báo
cáo
Thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
–
Thực
tiễn
Việt
Nam
và
Kinh
nghiệm
quốc
tế, trang
47.