1.1.Quan
niệm
về
tài
sản,
tài
sản
tham
nhũng
ở
Việt
Nam
Ở
Việt
Nam,
có
nhiều
cách
định
nghĩa
ít
nhiều
khác
nhau
về
"tài
sản".
Theo
Đại
từ
điển
tiếng
Việt:
“
Tài
sản
là
của
cải
vật
chất
dùng
để
sản
xuất
hoặc
tiêu
dùng”
[5];
còn
theo
Từ
điển
Luật
học:
“
Tài
sản
là
các
vật
có
giá
trị
bằng
tiền
và
là
đối
tượng
của
quyền
tài
sản
và
các
lợi
ích
vật
chất
khác”
[6].
Cuốn
Thuật
ngữ
pháp
lý
giải
thích
cụ
thể
hơn:
"
Tài
sản
bao
gồm
vật
có
thực,
tiền,
giấy
tờ
trị
giá
được
bằng
tiền
và
các
quyền
về
tài
sản.
Tài
sản
có
hai
loại:
bất
động
sản
và
động
sản"
[7].
Về
mặt
pháp
lý,
Điều
105
Bộ
luật
Dân
sự
(BLDS)
năm
2015
quy
định:
“Tài
sản
là
vật,
tiền,
giấy
tờ
có
giá
và
quyền
tài
sản;
tài
sản
bao
gồm
bất
động
sản
và
động
sản.
Bất
động
sản
và
động
sản
có
thể
là
tài
sản
hiện
có
và
tài
sản
hình
thành
trong
tương
lai”.
Cũng
từ
góc
độ
pháp
lý,
khoản
1
Điều
3
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
(PCTN)
năm
2018
quy
định
:
“Tham
nhũng
là
hành
vi
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
đã
lợi
dụng
chức
vụ,
quyền
hạn
đó
vì
vụ
lợi”.
Kết
hợp
giữa
các
khái
niệm
tài
sản
và
tham
nhũng,
khoản
3
Điều
3
Luật
PCTN
năm
2018
nêu
ra
định
nghĩa
về
tài
sản
tham
nhũng:
“
Tài
sản
tham
nhũng
là
tài
sản
có
được
từ
tham
nhũng,
tài
sản
có
nguồn
gốc
từ
tham
nhũng”.
Tuy
nhiên,
trong
thực
tế,
xung
quanh
khái
niệm
“tài
sản
có
nguồn
gốc
từ
tham
nhũng”,
ở
Việt
Nam
hiện
vẫn
còn
những
quan
điểm
khác
nhau.
Quan
điểm
thứ
nhất
cho
rằng,
tài
sản
có
nguồn
gốc
từ
hành
vi
tham
nhũng là
tài
sản
không
trực
tiếp
có
được
do
thực
hiện
các
hành
vi
bị
xem
là
tội
phạm
tham
nhũng,
mà
có
được
do
lợi
dụng
chức
vụ,
quyền
hạn
hay
lạm
quyền
trong
khi
thi
hành
công
vụ
để
gây
ảnh
hưởng
đối
với
người
khác;
do
giả
mạo
trong
công
tác;
do
đưa
hối
lộ,
môi
giới
hối
lộ
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
để
giải
quyết
công
việc
của
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị
hoặc
địa
phương;
do
lợi
dụng
chức
vụ,
quyền
hạn
sử
dụng
trái
phép
tài
sản
của
Nhà
nước..
[8].
Quan
điểm
thứ
hai
cho
rằng,
tài
sản
có
nguồn
gốc
từ
hành
vi
tham
nhũng
gồm
các
loại
tài
sản
có
được
từ
hành
vi
tham
nhũng
nhưng
đã
được
người
thực
hiện
hành
vi
tham
nhũng
và
người
khác
hợp
pháp
hóa
để
đầu
tư
trực
tiếp
vào
sản
xuất
kinh
doanh,
biến
tiền
“bẩn”
thành
tiền
“sạch”
(gọi
là
rửa
tiền),
hay
để
trả
các
khoản
nợ,
vay
cũ
tại
các
ngân
hàng,
các
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân;
kể
cả
để
dùng
vào
mục
đích
từ
thiện
như
xây
bệnh
viện,
trường
học,
đình,
chùa,
miếu
mạo
[9].
Như
vậy,
có
thể
thấy
rằng,
ở
Việt
Nam,
quan
điểm
về
tài
sản
tham
nhũng
vẫn
chưa
cụ
thể
và
có
xu
hướng
hẹp
hơn
so
với
nhận
thức
chung
của
cộng
đồng
quốc
tế.
Cụ
thể,
theo
khoản
d
Điều
2
Công
ước
của
Liên
hợp
quốc
về
chống
tham
nhũng
(UNCAC)
[10],
tài
sản
[tài
sản
tham
nhũng]
“…
có
nghĩa
là
mọi
loại
tài
sản,
vật
chất
hay
phi
vật
chất,
động
sản
hay
bất
động
sản,
hữu
hình
hay
trừu
tượng,
và
các
văn
bản
pháp
lý
hay
giấy
tờ
chứng
minh
quyền
sở
hữu
hoặc
lợi
ích
đối
với
tài
sản
đó”.
Ngoài
ra,
theo
Điều
31
UNCAC,
tài
sản
tham
là
những
“
tài
sản có
nguồn
gốc
từ
tội
phạm
được
quy
định
theo
Công
ước
này
hoặc
tài
sản
có
giá
trị
tương
đương
với
giá
trị
của
tài
sản
do
phạm
tội
mà
có”
(khoản
1(a))
và “
tài
sản,
trang
thiết
bị
hay
công
cụ
khác
được
sử
dụng
hoặc
sẽ
được
sử
dụng
để
thực
hiện
hành
vi
phạm
tội
quy
định
theo
Công
ước
này”
(khoản
1(b)),
và
“
thu
nhập
hoặc
các
lợi
ích
khác
có
được
từ
tài
sản
do
phạm
tội
mà
có,
từ
tài
sản
được
biến
đổi
hoặc
chuyển
đổi
từ
tài
sản
do
phạm
tội
mà
có
hoặc
từ
tài
sản
mà
trong
đó
lẫn
lộn
một
phần
là
tài
sản
do
phạm
tội
mà
có …”
(khoản
6).
Như
vậy,
theo
các
quy
định
này
của
UNCAC,
tài
sản
tham
nhũng
có
thể
là
hữu
hình
hoặc
vô
hình,
có
được
một
cách
trực
tiếp
từ
hành
vi
tham
nhũng,
hoặc
gián
tiếp
thông
qua
hành
vi
rửa
tiền
tham
nhũng.
Tương
tự,
Tổ
chức
Hợp
tác
kinh
tế
và
Phát
triển
(OECD)
định
nghĩa
tài
sản
bị
đánh
cắp
(stolen
asset) là
tiền
bạc,
của
cải,
hoặc
các
tài
sản
khác
tích
lũy
được
thông
qua
hành
vi
tham
nhũng,
trong
đó
bao
gồm
hối
lộ,
tham
ô,
biển
thủ
tài
sản
hoặc
ngân
quỹ,
kinh
doanh
nhờ
ảnh
hưởng
và
lạm
dụng
chức
năng
trong
khu
vực
công
[11].
1.2.Quan
niệm
về
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
ở
Việt
Nam
Hiện
nay,
ở
Việt
Nam,
do
chưa
có
quy
định
cụ
thể
về
tài
sản
tham
nhũng
nên
quan
điểm
về
cách
thức
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
cũng
chưa
được
hiểu
một
cách
thống
nhất.
Các
quy
định
trong
pháp
luật
hiện
hành
của
Việt
Nam
về
vấn
đề
này
chưa
rõ
ràng
và
hẹp
so
với
các
tiêu
chuẩn
quốc
tế.
Ví
dụ,
đối
với
trường
hợp
tài
sản
có
nguồn
gốc
từ
hành
vi
phạm
tội
mà
không
còn
tồn
tại,
không
thể
xác
định
hoặc
giá
trị
đã
giảm
đáng
kể
so
với
ban
đầu,
khoản
5
Điều
31
UNCAC
khuyến
nghị
hình
thức
“
tịch
thu
phần
giá
trị
được
xác
định
là
có
từ
tài
sản
do
phạm
tội
mà
có”.
Theo
đó,
hình
phạt
tiền
được
cho
là
tương
đương
với
giá
trị
của
tài
sản
do
phạm
tội
mà
có
sẽ
được
Toà
án
cân
nhắc
sau
khi
đánh
giá
khả
năng
thanh
toán
của
bị
cáo.
Đây
là
cách
xử
lý
linh
hoạt
và
triệt
để.
Ưu
điểm
của
phương
thức
tịch
thu
này
là
ở
chỗ,
kể
cả
khi
kẻ
phạm
tội
đã
“nhanh
tay”
tẩu
tán
tất
cả
tài
sản
của
mình
cho
người
khác
thì
bên
thứ
ba
có
được
khối
tài
sản
trên
(cố
ý
hay
ngay
tình)
vẫn
có
thể
bị
tịch
thu
[12].
Tuy
nhiên,
phương
thức
này
hiện
chưa
được
áp
dụng
ở
Việt
Nam,
dẫn
đến
bế
tắc
trong
việc
thu
hồi
tài
sản
của
nhiều
vụ
án
tham
nhũng
lớn,
khi
mà
tài
sản
tham
nhũng
đã
bị
tẩu
tán
hầu
hết
[13].
2.Cơ
sở
chính
trị,
pháp
lýcủa việc
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
ở
Việt
Nam
2.1.Cơ
sở
chính
trị
Trong
hệ
thống
chính
trị
của
nước
ta
hiện
nay,
việc
giải
quyết
các
vấn
đề
xã
hội
lớn
đều
cần
phải
dựa
trên
nền
tảng
quan
điểm
định
hướng
của
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam.
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam
đã
rất
coi
trọng
công
tác
PCTN,
thể
hiện
qua
các
văn
kiện
của
Đảng,
trong
đó
bao
gồm
các
Văn
kiện
Đại
hội
đại
biểu
toàn
quốc,
các
nghị
quyết
của
Ban
chấp
hành
Trung
ương
và
các
chỉ
thị
của
Bộ
Chính
trị,
Ban
Bí
thư…
Xét
riêng
về
vấn
đề
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng,
Văn
kiện
Đại
hội
đại
biểu
toàn
quốc
lần
thứ
XI
của
Đảng
yêu
cầu
phải
“
Xử
lý
đúng
pháp
luật,
kịp
thời,
công
khai
cán
bộ
tham
nhũng;
tịch
thu
sung
công
tài
sản
tham
nhũng,
tài
sản
có
nguồn
gốc
từ
tham
nhũng”
[14].
Nghị
quyết
Trung
ương
3
(khóa
X)
nhấn
mạnh,
trong
công
tác
PCTN,
cần:
“
Chú
trọng
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng;
áp
dụng
chính
sách
khoan
hồng
đối
với
những
người
phạm
tội
nhưng
có
thái
độ
thành
khẩn,
đã
bồi
thường
thiệt
hại
hoặc
khắc
phục
hậu
quả
kinh
tế,
hợp
tác
tốt
với
cơ
quan
chức
năng;
nghiên
cứu
sửa
đổi
pháp
luật
hình
sự
theo
hướng
khoan
hồng
hơn
đối
với
những
người
đưa
hoặc
người
nhận
hối
lộ
nhưng
đã
tự
giác
khai
báo
và
nộp
lại
tài
sản
trước
khi
bị
phát
hiện;
chú
trọng
tới
các
chế
tài
phạt
tiền
nhằm
tăng
khả
năng
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng”
[15].
Để
thể
chế
hóa
các
quan
điểm
đó
thành
các
quy
định
của
pháp
luật,
Kết
luận
Hội
nghị
Trung
ương
5
(khóa
XI)
đã
yêu
cầu
các
cơ
quan
chức
năng
“
Sửa
đổi
pháp
luật
hình
sự
theo
hướng
tăng
hình
thức
phạt
tiền,
miễn
hoặc
giảm
hình
phạt
khác
đối
với
những
đối
tượng
có
hành
vi
tham
nhũng
nhưng
đã
chủ
động
khai
báo,
khắc
phục
hậu
quả”
[16].
2.2.Cơ
sở
pháp
lý
Điều
93
Luật
PCTN
năm
2018
nêu
ra
hai
nguyên
tắc: Tài
sản
tham
nhũng
phải
được
thu
hồi,
trả
lại
cho
chủ
sở
hữu,
người
quản
lý
hợp
pháp
hoặc
tịch
thu
theo
quy
định
của
pháp
luật(khoản
1)
và Thiệt
hại
do
hành
vi
tham
nhũng
gây
ra
phải
được
khắc
phục;
người
có
hành
vi
tham
nhũng
gây
thiệt
hại
phải
bồi
thường
theo
quy
định
của
pháp
luật (khoản
2).
Theo
quy
định
của
Điều
92
Luật
PCTN
năm
2018,
người
có
hành
vi
tham
nhũng
giữ
bất
kỳ
chức
vụ,
vị
trí
công
tác
nào
đều
phải
bị
xử
lý
nghiêm
minh
theo
quy
định
của
pháp
luật,
kể
cả
người
đã
nghỉ
hưu,
thôi
việc,
chuyển
công
tác
(khoản
1).
Hình
thức
xử
lý
có
thể
là
kỷ
luật,
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính
hoặc
bị
truy
cứu
trách
nhiệm
hình
sự
tuỳ
theo
mức
độ
vi
phạm
(khoản
2).
Tuy
nhiên,
người
có
hành
vi
tham
nhũng
đã
chủ
động
khai
báo
trước
khi
bị
phát
giác,
tích
cực
hợp
tác
với
cơ
quan
có
thẩm
quyền,
góp
phần
hạn
chế
thiệt
hại,
tự
giác
nộp
lại
tài
sản
tham
nhũng,
khắc
phục
hậu
quả
của
hành
vi
tham
nhũng
thì
được
xem
xét
giảm
hình
thức
kỷ
luật,
giảm
nhẹ
trách
nhiệm
hình
sự,
miễn
hình
phạt
hoặc
miễn
trách
nhiệm
hình
sự
(khoản
4).
Cũng
liên
quan
đến
vấn
đề
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng,
Điều
91
Luật
PCTN
năm
2018
quy
định,
trên
cơ
sở
điều
ước
quốc
tế
mà
Việt
Nam
là
thành
viên,
các
cơ
quan
có
thẩm
quyền
của
Việt
Nam
hợp
tác
với
các
cơ
quan
có
thẩm
quyền
của
nước
ngoài
trong
kê
biên
tài
sản,
phong
tỏa
tài
khoản,
tịch
thu
hoặc
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
và
trả
lại
tài
sản
đó
cho
chủ
sở
hữu,
người
quản
lý
hợp
pháp.
Luật
cũng
giao
cho
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
tối
cao
là
cơ
quan
trung
ương
về
hợp
tác
quốc
tế
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
trong
tố
tụng
hình
sự;
tiếp
nhận,
xử
lý
yêu
cầu
tương
trợ
tư
pháp
hình
sự
của
nước
ngoài
về
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
và
đề
nghị
nước
ngoài
thực
hiện
yêu
cầu
tương
trợ
tư
pháp
hình
sự
về
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
của
Việt
Nam;
còn
Thanh
tra
Chính
phủ,
Bộ
Tư
pháp,
Bộ
Ngoại
giao
và
cơ
quan
nhà
nước
khác
có
liên
quan,
trong
phạm
vi
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
của
mình,
có
trách
nhiệm
phối
hợp
với
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
tối
cao
trong
hợp
tác
quốc
tế
về
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng.
Bên
cạnh
Luật
PCTN,
vấn
đề
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
còn
được
quy
định
trong
một
số
văn
bản
pháp
luật
khác
như:
-
Bộ
luât
Hình
sự
(BLHS)
năm
2015đã
được
sửa
đổi,
bổ
sung
một
số
điều
năm
2017
quy
định
về
thu
hồi
tài
sản
nói
chung,
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
nói
riêng,
được
thể
hiện
trong
các
quy
định
về
áp
dụng
hình
phạt
tiền,
tịch
thu
tài
sản
và
các
biện
pháp
tư
pháp
đối
với
các
tội
phạm,
trong
đó
có
tội
phạm
tham
nhũng.
-
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
(TTHS)
năm
2015
không
bao
hàm
quy
định
riêng
về
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng.
Việc
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
có
thể
được
thực
hiện
như
đối
với
các
trường
hợp
thu
hồi
tài
sản
khác.
Đối
với
bị
can,
bị
cáo
phạm
các
tội
mà
BLHS
quy
định
có
thể
tịch
thu
tài
sản
hoặc
phạt
tiền
cũng
như
đối
với
người
phải
chịu
trách
nhiệm
bồi
thường
thiệt
hại
theo
quy
định
của
pháp
luật
thì
Bộ
luật
TTHS
quy
định
cho
phép
các
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
thực
hiện
việc
kê
biên
tài
sản.
Đây
là
những
biện
pháp
nhằm
bảo
đảm
cho
việc
thi
hành
các
quyết
định
của
Tòa
án
về
phạt
tiền,
tịch
thu
tài
sản,
buộc
bồi
thường
thiệt
hại
trong
các
vụ
án
hình
sự
nói
chung
(trong
đó
có
các
vụ
án
tham
nhũng)
được
thuận
lợi.
-
Bộ
luật
Dân
sự
(BLDS)
năm
2015
không
bao
hàm
các
quy
định
trực
tiếp
về
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng.
Tuy
nhiên,
Bộ
luật
này
quy
định
về
quyền
của
chủ
sở
hữu
đối
với
tài
sản;
xác
định
quyền
của
chủ
sở
hữu
trong
việc
đòi
lại
các
tài
sản
bị
chiếm
đoạt
bất
hợp
pháp;
đòi
bồi
thường
thiệt
hại
về
tài
sản
do
hành
vi
xâm
phạm
gây
ra;
nghĩa
vụ
hoàn
trả
tài
sản
do
chiếm
hữu,
sử
dụng,
được
lợi
về
tài
sản
không
có
căn
cứ
pháp
luật.
Như
vậy,
trong
các
trường
hợp
tài
sản
bị
chiếm
đoạt
bất
hợp
pháp;
bị
thiệt
hại
do
hành
vi
xâm
phạm
trái
pháp
luật
gây
ra
(trong
đó
có
hành
vi
tham
nhũng);
bị
chiếm
hữu,
sử
dụng,
được
lợi
không
có
căn
cứ
pháp
luật
(trong
đó
có
những
tài
sản
có
nguồn
gốc
từ
tham
nhũng),
thì
chủ
sở
hữu
có
quyền
đề
nghị
cơ
quan
có
thẩm
quyền
áp
dụng
các
quy
định
của
BLDS
để
đòi
lại
các
tài
sản
đó
và
đòi
bồi
thường
thiệt
hại
về
tài
sản
do
hành
vi
xâm
phạm
gây
ra.
-
Cũng
như
BLDS
năm
2015,
Bộ
luật
Tố
tụng
dân
sự
(TTDS)
năm
2015
không
bao
hàm
quy
định
riêng
về
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng,
mà
quy
định
về
trình
tự,
thủ
tục,
thẩm
quyền,
trách
nhiệm
của
các
cơ
quan
chức
năng
trong
việc
phát
hiện,
xử
lý
các
tài
sản
trong
các
vụ
án
dân
sự;
các
biện
pháp
khẩn
cấp
tạm
thời
trong
tố
tụng
dân
sự…Những
quy
định
này
có
thể
được
áp
dụng
cho
việc
thu
hồi
tài
sản
(trong
đó
có
tài
sản
tham
nhũng)
trong
các
vụ
án
dân
sự.
-
Luật
Thi
hành
án
dân
sự
năm
2008
đã
được
sửa
đổi,
bổ
sung
một
số
điều
năm
2014
cũng
không
có
quy
định
riêng
cho
việc
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng.
Tuy
nhiên,
việc
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
trong
thi
hành
án
dân
sự
có
thể
được
thực
hiện
như
các
trường
hợp
thi
hành
án
thu
hồi
tiền,
tài
sản
khác.
Trong
vấn
đề
này,
Luật
Thi
hành
án
dân
sự
có
các
quy
định
liên
quan
đến
việc
thi
hành
bản
án,
quyết
định
của
Tòa
án
về
dân
sự,
hình
phạt
tiền,
tịch
thu
tài
sản,
truy
thu
tiền,
tài
sản
thu
lợi
bất
chính,
xử
lý
vật
chứng,
tài
sản,
án
phí
và
quyết
định
dân
sự
trong
bản
án,
quyết
định
về
vụ
án
hình
sự.
-
Luật
Phòng,
chống
rửa
tiền
năm
2012
quy
định
về
các
biện
pháp
phòng
ngừa,
phát
hiện,
ngăn
chặn,
xử
lý
tổ
chức,
cá
nhân
có
hành
vi
hợp
pháp
hóa
nguồn
gốc
của
tài
sản
do
phạm
tội
mà
có
và
hợp
tác
quốc
tế
về
phòng,
chống
rửa
tiền.
Trong
trường
hợp
các
đối
tượng
tham
nhũng
có
hành
vi
hợp
pháp
hóa
nguồn
gốc,
dịch
chuyển
các
tài
sản
do
phạm
tội
mà
có
thì
có
thể
áp
dụng
các
quy
định
của
Luật
Phòng,
chống
rửa
tiền
để
thu
hồi
tài
sản
đó.
-
Luật
Các
tổ
chức
tín
dụng
năm
2010
đã
được
sửa
đổi,
bổ
sung
một
số
điều
năm
2017
quy
định
về
trách
nhiệm
của
các
tổ
chức
tín
dụng
trong
việc
phòng,
chống
rửa
tiền;
hợp
tác
với
các
cơ
quan
chức
năng
trong
công
tác
điều
tra
về
hoạt
động
rửa
tiền.
Đây
là
những
quy
định
có
tác
dụng
phòng
ngừa
và
phát
hiện
việc
chuyển
tài
sản
tham
nhũng;
giúp
cho
việc
phát
hiện,
thu
giữ
tài
sản
tham
nhũng
được
thuận
lợi.
-Luật
Kiểm
toán
Nhà
nước
năm
2015
đã
được
sửa
đổi,
bổ
sung
một
số
điều
năm
2019
quy
định
mục
đích
kiểm
toán
là:
Phục
vụ
việc
kiểm
tra,
giám
sát
của
Nhà
nước
trong
quản
lý,
sử
dụng
ngân
sách,
tiền
và
tài
sản
nhà
nước;
góp
phần
thực
hành
tiết
kiệm,
chống
tham
nhũng,
thất
thoát,
lãng
phí,
phát
hiện
và
ngăn
chặn
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật;
nâng
cao
hiệu
quả
sử
dụng
ngân
sách,
tiền
và
tài
sản
nhà
nước.
-
Luật
Thanh
tra
năm
2010
quy
định
về
thẩm
quyền
của
Trưởng
đoàn
thanh
tra
hành
chính,
thanh
tra
chuyên
ngành
và
người
ra
quyết
định
thanh
tra
hành
chính,
thanh
tra
chuyên
ngành
trong
việc
yêu
cầu
tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
phong
tỏa
tài
khoản
để
phục
vụ
cho
việc
thanh
tra
cũng
như
ngăn
chặn
hành
vi
tẩu
tán
tài
sản
của
đối
tượng
thanh
tra.
Luật
này
cũng
quy
định
thẩm
quyền
của
người
ra
quyết
định
thanh
tra
trong
việc
quyết
định
thu
hồi
tiền,
tài
sản
bị
chiếm
đoạt,
sử
dụng
trái
phép
hoặc
bị
thất
thoát
do
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật
của
đối
tượng
thanh
tra
gây
ra.
Những
quy
định
này
cũng
được
áp
dụng
với
tài
sản
tham
nhũng.
-
Luật
Tương
trợ
tư
pháp
năm
2007
quy
định
về
nguyên
tắc,
thẩm
quyền,
trình
tự,
thủ
tục
thực
hiện
tương
trợ
tư
pháp
về
dân
sự,
hình
sự;
và
trách
nhiệm
của
các
cơ
quan
nhà
nước
Việt
Nam
trong
tương
trợ
tư
pháp.
Đây
là
căn
cứ
pháp
lý
để
các
cơ
quan
có
thẩm
quyền
thực
hiện
các
hoạt
động
tương
trợ
tư
pháp
giữa
Việt
Nam
với
các
nước,
trong
đó
có
các
hoạt
động
liên
quan
đến
việc
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
ở
nước
ngoài.
3. Những
thách
thức
mà
Việt
Nam
đang
phải
đối
mặt
trong
việc
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
Mặc
dù
công
cuộc
đấu
tranh
PCTN
nói
chung,
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
nói
riêng
đã
có
cơ
sở
chính
trị,
pháp
lý
khá
toàn
diện
và
vững
chắc;
song
hiện
nay,
việc
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
vẫn
còn
nhiều
thách
thức
đặt
ra.
-Thách
thức
về
mặt
tội
phạm
học
Ở
Việt
Nam,
chủ
thể
của
tội
phạm
tham
nhũng,
đặc
biệt
là
tham
nhũng
lớn,
thường
là
những
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn;
có
trình
độ
học
vấn
và
chuyên
môn
nhất
định,
am
hiểu
pháp
luật,
có
khả
năng
nhận
biết
những
khoảng
trống
của
hệ
thống
pháp
luật
để
thực
hiện
hành
vi
phạm
tội.
Những
chủ
thể
này
cũng
thường
có
điều
kiện
tạo
dựng
được
nhiều
mối
quan
hệ
có
khả
năng
“che
chắn”,
“bảo
vệ”
cho
hành
vi
sai
phạm,
thường
có
sự
chuẩn
bị
chu
đáo
khi
phạm
tội;
khi
thực
hiện
xong
chủ
động
xóa
hết
mọi
dấu
vết,
tiêu
hủy
giấy
tờ,
chứng
từ,
hóa
đơn,
sổ
sách,
che
dấu,
tẩu
tán
tài
sản
tham
nhũng.
Thời
gian
gần
đây,
các
vụ
tham
nhũng
lớn
ở
Việt
Nam
thường
được
thưc
hiện
trong
một
quy
trình
khép
kín,
liên
quan
đến
nhiều
người
nhưng
có
sự
liên
kết,
bao
che,
thống
nhất
về
mặt
lợi
ích;
vì
vậy,
trong
nhiều
vụ
án
rất
khó
cá
thể
hóa
trách
nhiệm
hình
sự
khi
có
hiện
tượng
tham
nhũng
tập
thể;
các
đối
tượng
bằng
nhiều
hình
thức
đã
chuyển
tài
sản
chung
thành
tài
riêng
của
một
nhóm
người
có
liên
quan.
Mức
độ
khó
khăn
đối
với
các
cơ
quan
tư
pháp
còn
cao
hơn
do
việc
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
và
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
thiếu
hiệu
quả
nên
nhiều
đối
tượng
phạm
tội
có
tâm
lý
sẵn
sàng
chấp
nhận
hình
phạt
để
thụ
hưởng
tài
sản
tham
nhũng.
Những
đối
tượng
này
thường
không
chịu
hợp
tác
với
các
cơ
quan
tố
tụng
để
có
thể
che
giấu,
tẩu
tán
tài
sản
tham
nhũng.
Bên
cạnh
đó,
do
chính
sách
hình
sự
chưa
thực
sự
hợp
lý,
dẫn
đến
tình
trạng
người
phạm
tội
cho
là
dù
có
khai
nhận,
nộp
lại
tài
sản
tham
nhũng
thì
vẫn
có
thể
phải
chịu
mức
án
cao
nên
họ
chấp
nhận
hình
phạt,
không
chịu
khai
báo,
che
giấu
tài
sản
tham
nhũng
để
người
thân
trong
gia
đình
hưởng
lợi.
-Thách
thức
về
mặt
xã
hội
Ở
nước
ta,
kể
từ
khi
bắt
đầu
Công
cuộc
đổi
mới
toàn
diện
đất
nước
(năm
1986),
mặc
dù
thanh
toán
qua
tài
khoản
đã
dần
trở
lên
quen
thuộc
hơn,
song
thói
quen
sử
dụng
tiền
mặt
trong
thanh
toán
vẫn
còn
rất
phổ
biến,
đặc
biệt
là
trong
các
giao
dịch
dân
sự.
Văn
hóa
sử
dụng
tiền
mặt
đã
ăn
sâu
bén
rễ
trong
xã
hội
trong
khi
cơ
chế
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập,
quản
lý
các
giao
dịch
dân
sự
ở
Việt
Nam
hiện
còn
khá
lỏng
lẻo;
hệ
thống
ngân
hàng
chưa
hoàn
thành
vai
trò
kiểm
soát
dòng
tiền
trong
nền
kinh
tế,
mức
độ
minh
bạch
tài
sản
còn
thấp
và
hệ
thống
đăng
ký
tài
sản
mới
đang
được
phát
triển;
những
giá
trị
liêm
chính
trong
xã
hội
bị
suy
giảm
và
sự
phổ
biến
của
tham
nhũng
trong
nhiều
thập
kỷ
dẫn
đến
tâm
lý
“sống
chung
với
tham
nhũng”,
“chấp
nhận
tham
nhũng”
trong
một
bộ
phận
khá
lớn
người
dân
–
làm
cho
các
hành
vi
tham
nhũng
và
việc
che
dấu
tài
sản
tham
nhũng
ít
bị
phát
hiện
và
tố
cáo.
Tất
cả
những
điều
này
tạo
ra
một
môi
trường
xã
hội
không
thuận
lợi
cho
PCTN
nói
chung,
cho
việc
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
nói
riêng.
-Thách
thức
về
mặt
pháp
lý
Như
đã
đề
cập
ở
trên
đây,
vấn
đề
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng,
mặc
dù
đã
được
đề
cập
trong
nhiều
văn
bản
pháp
luật,
song
xét
về
nội
dung,
hệ
thống
pháp
luật
về
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
vẫn
còn
nhiều
khoảng
trống,
thiếu
cụ
thể;
công
tác
giải
thích,
hướng
dẫn
thực
thi
pháp
luật
của
cơ
quan
có
thẩm
quyền
chưa
kịp
thời
gây
khó
khăn
cho
việc
xác
định
tài
sản
tham
nhũng,
cũng
như
việc
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng.
4.Nâng
cao
hiệu
quả
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
ở Việt
Nam
hiện
nay
Để
nâng
cao
hiệu
quả
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng,
Việt
Nam
cần
vận
dụng
kinh
nghiệm
của
một
số
nước
trong
vấn
đề
này
nhằm
hoàn
thiện
khung
chính
sách,
pháp
luật
hiện
hành
của
mình,
cụ
thể
như
sau:
Thứ
nhất,
cần
có
chiến
lược
toàn
diện
và
quyết
tâm
mạnh
mẽ
trong
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
Kinh
nghiệm
các
quốc
gia
cho
thấy,
những
trở
ngại
về
thể
chế
tác
động
nhiều
nhất
đến
hiệu
quả
các
biện
pháp
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng.
Những
trở
ngại
này
thể
hiện
ở chiến
lược
thu
hồi
tài
sản
thiếu
toàn
diện
và
quyết
tâm
chính
trị
thiếu
mạnh
mẽ,nhất
quán.
Trong
trường
hợp
đó,
việc
thu
hồi
tài
sản
sẽ
không
được
coi
là
vấn
đề
ưu
tiên
trong
PCTN
và
không
được
cung
cấp
đầy
đủ
những
nguồn
nhân
lực
và
tài
chính
cũng
như
công
cụ
pháp
lý
cần
thiết
để
triển
khai
hiệu
quả.
Như
đã
phân
tích
ở
trên,
trong
khoảng
10
năm
gần
đây,
Việt
Nam
đã
có
những
nhận
thức
rõ
ràng
hơn
về
vai
trò
quan
trọng
của
công
tác
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng,
nhưng
cho
đến
nay,
Việt
Nam
vẫn
chưa
có
chính
sách
và
chiến
lược
toàn
diện,
với
những
mục
tiêu
rõ
ràng
và
lộ
trình
thực
hiện
cụ
thể
trong
vấn
đề
này.
Vì
vậy,
để
bảo
đảm
sự
thành
công
của
việc
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng,
Việt
Nam
cần
khắc
phục
những
hạn
chế
đó,
và
cần
tạo
sự
phối
hợp
đồng
bộ,
thống
nhất
giữa
các
cơ
quan
chức
năng
cùng
hành
động
với
quyết
tâm
truy
tìm
và
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
tới
cùng,
hiện
thực
hoá
thông
điệp
mà
các
tổ
chức
quốc
tế
đã
đề
xuất
đó
là:
"không
có
bến
đỗ
nào
có
thể
coi
là
an
toàn
cho
những
kẻ
tham
nhũng
và
tài
sản
phi
pháp
của
chúng”.
Thứ
hai, tăng
cường
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
của
người
có
chức
vụ,
quyền hạn
Kinh
nghiệm
của
cộng
đồng
quốc
tế
cho
thấy
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
tốt
là
một
trong
những
điều
kiện
tiên
quyết
để
thực
hiện
các
biện
pháp
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng.
Kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập,
mà
thể
hiện
trước
hết
qua
việc
thực
hiện
minh
bạch
về
tài
sản,
thu
nhập
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
giúp
các
cơ
quan
chức
năng
phân
biệt
được
đâu
là
tài
sản
có
nguồn
gốc
hợp
pháp
và
đâu
là
tài
sản
có
nguồn
gốc
không
hợp
pháp,
trên
cơ
sở
đó
đề
ra
các
giải
pháp
cho
phù
hợp.
Ở
Việt
Nam
thời
gian
qua,
việc
thực
hiện
minh
bạch
tài
sản,
thu
nhập
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
còn
mang
tính
hình
thức,
hiệu
quả
thấp.
Vì
vậy,
để
nâng
cao
hiệu
quả
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng,
Việt
Nam
cần
khắc
phục
hạn
chế
này,
mà
trước
hết
cần
cải
cách
việc
kê
khai
tài
sản,
thu
nhập
của
cán
bộ,
công
chức,
viên
chức
theo
hướng
thực
chất,
có
kiểm
tra,
xác
minh
và
công
khai
rộng
rãi
để
người
dân
giám
sát.
Nhà
nước
cũng
cần
xây
dựng
cơ
chế
kiểm
soát
hiệu
quả
tài
sản
trong
xã
hội
nói
chung
để
từ
đó
xác
định
được
tài
sản
tham
nhũng,
tài
sản
được
hình
thành
từ
tài
sản
tham
nhũng,
tạo
điều
kiện
cho
việc
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng.
Thứ
ba,xây
dựng
cơ
chế
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
không
dựa
trên
kết
án
hình
sự
Để
nâng
cao
hiệu
quả
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng,
Việt
Nam
nên
vận
dụng
kinh
nghiệm
về
thu
hồi
tài
sản
không
dựa
trên
kết
án
hình
sự
mà
nhiều
nước
trên
thế
giới
đã
áp
dụng,
trong
đó
bao
gồm
các
vấn
đề
sau:
(1)
Giảm
nghĩa
vụ
chứng
minh
trong
thu
hồi
tài
sản
đối
với
những
tội
phạm
(đã
được
quy
định
trong
UNCAC
và
UNTOC);
(2)
Chuyển
nghĩa
vụ
chứng
minh
nguồn
gốc
hợp
pháp
của
tài
sản
cho
người
bị
tình
nghi
phạm
tội
sau
khi
cơ
quan
có
thẩm
quyền
có
bằng
chứng
đáng
tin
cậy
cho
rằng
tài
sản
này
có
nguồn
gốc
bất
hợp
pháp;
(3)
Cho
phép
tịch
thu
tài
sản
không
dựa
trên
phán
quyết
hình
sự
hoặc
khi
không
chứng
minh
được
tội
phạm;
(4)
Cho
phép
thực
hiện
một
cách
trực
tiếp
hoặc
gián
tiếp
quyết
định
thu
hồi
tài
sản
không
dựa
trên
phán
quyết
của
Tòa
án
nước
ngoài;
(5)
Cho
phép
phong
tỏa
hoặc
thu
hồi
tài
sản
hợp
pháp
thay
thế
có
giá
trị
tương
đương
với
tài
sản
thất
thoát;
(6)
Công
nhận
và
thi
hành
phần
dân
sự
trong
quyết
định,
bản
án
của
Tòa
án
nước
ngoài,
đặc
biệt
liên
quan
đến
tịch
thu,
hoàn
trả
tài
sản
do
phạm
tội
mà
có.
Thứ
tư,
hình
sự
hóa
hành
vi
làm
giàu
bất
chính
Hiện
tại,
Việt
Nam
đang
gặp
những
khó
khăn
trong
việc
xác
định
và
xử
lý
những
tài
sản
của
công
chức
nhà
nước
tăng
lên
một
cách
đáng
kể
so
với
thu
nhập
chính
đáng
của
họ
mà
không
chứng
minh
được
một
cách
hợp
lý
về
nguồn
gốc
của
việc
tăng
lên
đó.
Điều
20
của
UNCAC
quy
định: Mỗi
Quốc
gia
thành
viên
sẽ
áp
dụng
các
biện
pháp
lập
pháp
và
các
biện
pháp
cần
thiết
khác
nhằm
quy
định
là
tội
phạm,
nếu
được
thực
hiện
một
cách
cố
ý,
hành
vi
làm
giàu
bất
chính,
nghĩa
là
việc
tài
sản
của
một
công
chức
tăng
đáng
kể
so
với
thu
nhập
hợp
pháp
của
công
chức
mà
công
chức
này
không
giải
thích
được
một
cách
hợp
lý
về
lý
do
tăng
đáng
kể
như
vậy.
Đây
là
quy
định
mà
Việt
Nam
có
thể
xem
xét
áp
dụng
để
giải
quyết
khó
khăn
nêu
trên.
Điều
đó
là
bởi
việc
xác
lập
tội
danh
làm
giàu
bất
chính
có
nghĩa
là chuyển
một
phần
nghĩa
vụ
chứng
minh để
cá
nhân
phải
chứng
minh
tính
hợp
pháp
đối
với
tài
sản
của
họ.
Nếu
giải
thích
được
tài
sản
đã
được
thủ
đắc
một
cách
hợp
pháp
thì
sẽ
không
bị
tịch
thu.
Khi
áp
dụng
quy
tắc
đảo
ngược
trách
nhiệm
chứng
minh,
các
đối
tượng
có
liên
quan
phải
chứng
minh
tính
hợp
pháp
của
tài
sản
thuộc
quyền
sở
hữu
của
họ.
Thứ
năm, áp
dụng
có
hiệu
quả
các
biện
pháp
phòng,
chống
rửa
tiền
Mặc
dù
Việt
Nam
đã
có
Luật
Phòng,
chống
rửa
tiền
từ
năm
2012,
song
các
biện
pháp
phòng,
chống
rửa
tiền
như
kiểm
tra
thông
tin
khách
hàng
hoặc
báo
cáo
giao
dịch
đáng
ngờ
chưa
được
thực
hiện
hiệu
quả,
các
cơ
quan
và
tổ
chức
tài
chính
chưa
thực
hiện
được
vai
trò
kiểm
soát
sự
luân
chuyển
của
các
tài
sản
bị
thất
thoát
tới
các
trung
tâm
tài
chính.
Để
khắc
phục
những
hạn
chế
đó,
Việt
Nam
cần:
(1)
Thực
hiện
nghiêm
các
quy
định
của
Luật
Phòng,
chống
rửa
tiền
năm
2012;
(2)
Thực
hiện
đầy
đủ
các
biện
pháp
chống
rửa
tiền
được
quy
định
trong
các
điều
ước
và
chuẩn
mực
quốc
tế
(bao
gồm
UNCAC
và
các
khuyến
nghị
của
Lực
lượng
đặc
nhiệm
Tài
chính
về
chống
rửa
tiền);
(3)
Thực
hiện
các
khuyến
nghị
của
Sáng
kiến
StAR
[17] liên
quan
đến
những
người
có
thế
lực
chính
trị,
buộc
các
trung
tâm
tài
chính
phải:
Áp
dụng
các
biện
pháp
kiểm
tra
thông
tin
khách
hàng
đối
với
tất
cả
những
người
có
thế
lực
chính
trị,
là
công
dân
của
nước
sở
tại
hoặc
công
dân
nước
ngoài;
yêu
cầu
kê
khai
về
chủ
sở
hữu
hưởng
lợi;
yêu
cầu
kê
khai
thu
nhập
và
tài
sản;
tiến
hành
rà
soát
định
kỳ
về
các
khách
hàng
là
những
người
có
thế
lực
chính
trị
và
không
giới
hạn
thời
gian
quy
định
một
cá
nhân
được
coi
là
người
có
thế
lực
chính
trị.
Thứ
sáu, hoàn
thiện
quy
định
về
phong
tỏa,
kê
biên,
thu
giữ
và
trả
lại
tài
sản
do
phạm
tội
mà
có
Việc
phong
tỏa,
kê
biên,
thu
giữ
và
trả
lại
tài
sản
do
phạm
tội
mà
có
gắn
liền
với
hoạt
động
của
các
tổ
chức
tín
dụng.
Đây
là
biện
pháp
phòng,
chống
rửa
tiền
theo
khuyến
nghị
của
các
tổ
chức
quốc
tế
và
khu
vực
và
cả
điều
ước
quốc
tế
về
lĩnh
vực
này
[18].
Tuy
nhiên,
ở
Việt
Nam,
việc
áp
dụng
các
biện
pháp
này
còn
nhiều
bất
cập.
Để
khắc
phục
hạn
chế
này,
Việt
Nam
cần
nghiên
cứu
bổ
sung
quy
định
cụ
thể
việc
kê
biên
tài
sản,
phong
tỏa
tài
khoản
tại
các
ngân
hàng,
các
tổ
chức
tín
dụng
mà
áp
dụng
đối
với
người
có
hành
vi
phạm
tội,
qua
đó
để
bảo
đảm
việc
thu
hồi
tài
sản.
Bên
cạnh
đó,
Việt
Nam
cũng
cần
nghiên
cứu,
bổ
sung
quy
định
về
trình
tự,
thủ
tục
phong
tỏa,
kê
biên,
thu
giữ
và
trả
lại
tài
sản
do
phạm
tội
mà
có
trong
trường
hợp
yêu
cầu
này
do
Tòa
án
nước
ngoài
ban
hành
trong
Bộ
luật
TTHS.
Ngoài
ra,
Việt
Nam
cũng
cần
xây
dựng
những
công
cụ
hỗ
trợ
cho
quá
trình
xác
định
và
phong
tỏa
tài
sản,
bao
gồm
việc
xây
dựng
và
duy
trì
hệ
thống
cơ
sở
dữ
liệu
công
khai
sẵn
có
về
tài
sản
các
hồ
sơ
công
ty,
giấy
tờ
nhà
đất
và
hồ
sơ
của
các
tổ
chức
phi
lợi
nhuận;
xây
dựng
cơ
sở
dữ
liệu
thông
tin
ngân
hàng
ở
cấp
độ
quốc
gia
trong
đó
bao
gồm
những
thông
tin
về
tài
khoản,
tên
của
những
chủ
sở
hữu
hưởng
lợi
và
những
người
được
ủy
quyền.
Thứ
bảy, tăng
cường
hợp
tác
quốc
tế
trong
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
Hiện
nay,
ngoài
Hiệp
định
Tương
trợ
tư
pháp
về
hình
sự
với
các
nước
ASEAN
và
các
Hiệp
định
Tương
trợ
tư
pháp
về
hình
sự,
dẫn
độ
với
Hàn
Quốc,
hầu
hết
các
hiệp
định
tương
trợ
tư
pháp
khác
mà
Việt
Nam
đã
ký
kết
đều
không
có
quy
định
về
thu
hồi
tài
sản
phạm
tội.
Luật
Tương
trợ
tư
pháp
hiện
thiếu
chế
định
về
thu
hồi
tài
sản
và
chưa
xác
định
rõ
vấn
đề
thu
hồi
tài
sản
phạm
tội
có
thuộc
phạm
vi
tương
trợ
tư
pháp
về
hình
sự
hay
không.
Do
vậy,
Việt
Nam
cần
ưu
tiên
áp
dụng
các
hiệp
định,
thoả
thuận
đã
ký
kết
có
nội
dung
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng.
Việt
Nam
cũng
cần
tiếp
tục
tham
gia,
ký
kết
các
hiệp
định
tương
trợ
tư
pháp
song
phương
trong
lĩnh
vực
hình
sự
và
dẫn
độ
tội
phạm
với
các
nước
nhằm
tạo
cơ
sở
pháp
lý,
cơ
chế
phối
hợp
trong
xử
lý
các
vụ
tham
nhũng
có
yếu
tố
nước
ngoài;
tăng
cường
vai
trò
của
các
cơ
quan
đầu
mối
trung
ương
trong
tương
trợ
tư
pháp
hình
sự;
thường
xuyên
trao
đổi,
đôn
đốc
các
cơ
quan
tố
tụng
nước
ngoài
thực
hiện
kịp
thời
các
yêu
cầu
tương
trợ
tư
pháp
của
Việt
Nam.
Thứ
tám,
gia
nhập
Nhóm
Đơn
vị
tình
báo
tài
chính
Egmont
Để
khẳng
định
sự
quan
trọng
của
việc
hợp
tác
quốc
tế
trong
chống
hoạt
động
rửa
tiền
và
tài
trợ
khủng
bố,
một
nhóm
các
đơn
vị
tình
báo
(FIUs)
của
một
số
nước
đã
gặp
nhau
tại
Egmont
Arenberg
Palace,
Bussels
của
Bỉ
và
quyết
định
thành
lập
mạng
lưới
thông
tin
của
các
FIUs
để
thúc
đẩy
hợp
tác
quốc
tế.
Hiện
nay,
mạng
lưới
này
được
biết
đến
là
Nhóm
Egmont
FIUs.
Nhóm
này
có
nhiệm
vụ
thúc
đẩy
sự
phát
triển
các
FIUs
để
hợp
tác
trong
các
lĩnh
trao
đổi
thông
tin,
đào
tạo
và
chia
sẻ
chuyên
gia.
Ở
Việt
Nam,
ngày
12/6/2014,
Thủ
tướng
Chính
phủ
đã
ban
hành
Quyết
định
số
35/2014/QĐ-TTg
quy
định
chức
năng,
nhiệm
vụ,
quyền
hạn,
cơ
cấu
tổ
chức
của
Cơ
quan
Thanh
tra
giám
sát
ngân
hàng,
trực
thuộc
Ngân
hàng
Nhà
nước
Việt
Nam.
Trong
cơ
cấu
tổ
chức
của
Cơ
quan
Thanh
tra
giám
sát
ngân
hàng
có
Cục
Phòng,
chống
rửa
tiền.
Cục
này
có
chức
năng,
nhiệm
vụ
tương
đương
với
FIUs
của
Việt
Nam.
Tuy
nhiên,
Việt
Nam
vẫn
cần
xây
dựng
thêm
các
đầu
mối
(đơn
vị)
ở
cơ
quan
trung
ương
đảm
nhận
chức
năng,
nhiệm
vụ
giống
một
FIUs,
đồng
thời,
chỉ
định
một
trong
các
đầu
mối
này
gia
nhập
vào
Nhóm
Đơn
vị
tình
báo
tài
chính
Egmont.
Thứ
chín,hoàn
thiện quy
định
liên
quan
đến
thu
hồi
tài
sản
-
Sửa
đổi
Luật
PCTN
năm
2018
theo
hướng
mở
rộng
hơn
nội
hàm
khái
niệm
"tài
sản
tham
nhũng",
"thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng”.
Theo
đó,
tài
sản
tham
nhũng
còn
bao
gồm
các
tài
sản
phái
sinh
từ
hành
vi
tham
nhũng
(tài
sản
của
Nhà
nước,
của
xã
hội,
của
cá
nhân
bị
thiệt
hại
do
hành
vi
tham
nhũng
gây
ra)
hoặc
tài
sản
có
được
do
áp
dụng
các
chế
tài
đối
với
người
có
hành
vi
tham
nhũng
(chế
tài
dân
sự,
chế
tài
hành
chính,
chế
tài
hình
sự);
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
là
hoạt
động
của
cơ
quan
nhà
nước
có
thẩm
quyền
nhằm
thu
hồi
tài
sản
do
người
có
hành
vi
tham
nhũng
chiếm
đoạt,
tài
sản
có
nguồn
gốc
từ
hành
vi
tham
nhũng,
tài
sản
phái
sinh
từ
hành
vi
tham
nhũng
hoặc
tài
sản
thu
được
từ
việc
áp
dụng
các
chế
tài
đối
với
người
có
hành
vi
tham
nhũng.
-
Sửa
đổi
BLHSnăm
2015
theo
hướng:bắt
buộc
trong
xử
lý
tội
phạm
tham
nhũng
phải
áp
dụng
hình
phạt
bổ
sung
nhằm
thu
hồi
đủ
giá
trị
tài
sản
bị
thiệt
hại
do
hành
vi
phạm
tội
gây
ra;
tăng
mức
hình
phạt
tiền,
giảm
hình
phạt
tù
có
thời
hạn
và
các
hình
phạt
khác
đối
với
những
đối
tượng
có
hành
vi
tham
nhũng
nhưng
đã
chủ
động
khai
báo,
khắc
phục
hậu
quả,
nhằm
giúp
tăng
khả
năng
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng;
không
chỉ
người
phạm
tội
mới
có
nghĩa
vụ
trả
lại
tài
sản,
sửa
chữa
hoặc
bồi
thường
thiệt
hại
mà
bất
kỳ
ai
đang
chiếm
hữu
không
có
căn
cứ
pháp
luật
cũng
phải
thực
hiện
nghĩa
vụ
trên.
-
Sửa
đổi
Bộ
luật
TTHS
năm
2015
theo
hướng:
trình
tự,
thủ
tục
nhằm
bảo
đảm
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
như
là
một
thủ
tục
đặc
biệt;
bổ
sung
biện
pháp
phong
tỏa
tài
khoản
tại
ngân
hàng;
bổ
sung
quy
định
cụ
thể
về
thủ
tục
kê
biên;
cho
phép
cơ
quan
điều
tra
được
áp
dụng
các
biện
pháp
điều
tra
đặc
biệt
với
một
số
loại
tội,
trong
đó
có
các
tội
về
tham
nhũng
như:
ghi
âm,
nghe
điện
thoại,
kiểm
tra
thư
tín,
tài
khoản
ngân
hàng...;
bổ
sung
thẩm
quyền
của
Tòa
án
trong
giai
đoạn
chuẩn
bị
xét
xử
có
quyền
xác
minh
tài
sản
trong
trường
hợp
người
phạm
tội
sẽ
phải
trả
lại
tài
sản,
sẽ
phải
bồi
thường
thiệt
hại
để
quyết
định
có
hay
không
ra
lệnh
kê
biên
tài
sản
bảo
đảm
cho
thi
hành
án.
-
Sửa
đổi
Bộ
luật
TTDS
năm
2015
theo
hướng:
bổ
sung
quy
định
về
quyền,
nghĩa
vụ,
trách
nhiệm
của
cơ
quan,
tổ
chức
được
giao
quản
lý
tài
sản
thuộc
sở
hữu
nhà
nước
trong
việc
khởi
kiện
vụ
án
dân
sự
để
đòi
lại
những
tài
sản
thuộc
quyền
quản
lý
của
cơ
quan,
tổ
chức
mình
nhưng
bị
hành
vi
tham
nhũng
xâm
phạm,
để
trả
về
cho
Nhà
nước;
bổ
sung
chế
tài
đối
với
những
người
có
trách
nhiệm
nhưng
không
thực
hiện
trách
nhiệm
khởi
kiện,
chứng
minh
tài
sản
bị
hành
vi
tham
nhũng
xâm
hại,
gây
ra;
bổ
sung
quy
định
về
sở
hữu
tài
sản
nhằm
ngăn
chặn
có
hiệu
quả
việc
hợp
pháp
hóa
quyền
sở
hữu
đối
với
tài
sản
tham
nhũng
thông
qua
các
giao
dịch
dân
sự.
-
Sửa
đổi
Luật
Tương
trợ
tư
pháp
năm
2007
theo
hướng:
bổ
sung
quy
định
về
thu
hồi
tài
sản
và
xác
định
rõ
vấn
đề
thu
hồi
tài
sản
do
phạm
tội
mà
có
thuộc
phạm
vi
tương
trợ
tư
pháp
về
hình
sự;
bổ
sung
quy
định
về
thẩm
quyền,
trình
tự,
thủ
tục
hợp
tác
quốc
tế
trong
việc
đề
nghị
các
cơ
quan
có
thẩm
quyền
nước
ngoài
xác
minh,
phong
tỏa,
thu
giữ,
chuyển
giao
tài
sản
tham
nhũng
có
nguồn
gốc
từ
Việt
Nam
ở
nước
ngoài
về
cho
Nhà
nước
Việt
Nam;
bổ
sung
quy
định
về
thực
hiện
ủy
thác
hoặc
lệnh
của
cơ
quan
có
thẩm
quyền
nước
ngoài
về
xác
minh,
phong
tỏa,
thu
giữ,
tịch
thu
tài
sản
tham
nhũng
có
nguồn
gốc
từ
nước
ngoài.
-
Nghiên
cứu
xây
dựng
Luật
Đăng
ký
tài
sản
để
tất
cả
các
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
tài
sản
đều
phải
kê
khai,
đăng
ký
nhằm
tạo
điều
kiện
thuận
lợi
cho
việc
quản
lý
nhà
nước
đối
với
tài
sản
trong
toàn
quốc;
qua
đó
hỗ
trợ
cho
việc
thi
hành
án
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
thuận
lợi
hơn./.
[1] Lê
Hiệp,
Tổng
bí
thư,
Chủ
tịch
nước:
“
Lợi
ích
nhóm,
tham
nhũng
là
giặc
nội
xâm
vô
cùng
nguy
hiểm”,
https://thanhnien.vn/thoi-su/tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-loi-ich-nhom-tham-nhung-la-giac-noi-xam-vo-cung-nguy-hiem-1225373.html.
[2] Quốc
Anh,
“Tham
nhũng
trở
thành
nguy
cơ
chính
đe
dọa
sự
tồn
vong
chế
độ”,
https://dantri.com.vn/xa-hoi/tham-nhung-tro-thanh-nguy-co-chinh-de-doa-su-ton-vong-che-do-20151224222419406.htm.
[3] 10
vụ
án
lớn
về
kinh
tế,
tham
nhũng
và
các
vụ
án
điển
hình
được
đưa
ra
xét
xử
trong
năm
2018, Tạp
chí
TAND
online,
11/01/2019,
https://tapchitoaan.vn/bai-viet/xet-xu-xet-xu/10-vu-an-lon-ve-kinh-te-tham-nhung-va-cac-vu-an-dien-hinh-duoc-dua-ra-xet-xu-trong-nam-2018.
[4] An
Nguyễn,
Bộ
Công
an:
Tội
phạm
về
kinh
tế,
tham
nhũng
vẫn
nghiêm
trọng,
https://baodautu.vn/bo-cong-an-toi-pham-ve-kinh-te-tham-nhung-van-nghiem-trong-d121993.html.
[5] Đại
từ
điển
tiếng
Việt,
Nxb.
Đại
học
Quốc
gia
thành
phố
Hồ
Chí
Minh,
năm
2008,
tr.1417.
[6] Từ
điển
Luật
học,
Nxb.
Từ
điển
Bách
khoa;
Nhà
xuất
bản
Tư
pháp,
Hà
Nội
2006,
tr.685.
[7] Nguyễn
Mạnh
Hùng, Thuật
ngữ
pháp
lý,
Nxb.
Chính
trị
quốc
gia,
Hà
Nội,
tr.384.
[8] Đinh
Văn
Quế,
“
Thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng-
Thực
trạng
và
giải
pháp”,
tham
luận
tại
Hội
thảo
“Thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng-
Thực
trạng
và
giải
pháp”,
do
Ban
Nội
chính
Trung
ương
tổ
chức,
tháng
4/2014.
[9] Bùi
Minh
Thanh,
"
Thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
trong
hoạt
động
điều
tra
của
cơ
quan
cảnh
sát
điều
tra,
Bộ
Công
an",
tham
luận
tại
Hội
thảo
“Thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng-
Thực
trạng
và
giải
pháp”,
do
Ban
Nội
chính
Trung
ương
tổ
chức,
tháng
4/2014.
[10] https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Cong-uoc-chong-tham-nhung-cua-Lien-Hop-quoc-09-12-2003-94971.aspx.
[12] Hướng
dẫn
lập
pháp
về
thực
thi
Công
ước
Liên
hợp
quốc
về
chống
tham
nhũng.
[13] Ví
dụ
như
xem
Tài
sản
vụ
ông
Đinh
La
Thăng:
Còn
hơn
900
tỷ
chưa
thu
hồi, https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/chong-tham-nhung/tai-san-vu-ong-dinh-la-thang-con-hon-900-ty-chua-thu-hoi-485827.html.
[14] Văn
kiện
Đại
hội
đại
biểu
toàn
quốc
lần
thứ
XI
của
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam,
https://cpv.ctu.edu.vn/vn-bn-quy-nh/36-trung-ng/135-vn-kin-i-hi-i-biu-toan-quc-ln-th-xi-ca-ng-cng-sn-vit-nam.
[15] Nghị
quyết
số
04-NQ/TW,
ngày
21/8/2006,
Hội
nghị
lần
thứ
ba
Ban
Chấp
hành
Trung
ương
Đảng
(khóa
X)
về
tăng
cường
sự
lãnh
đạo
của
Đảng
đối
với
công
tác
phòng,
chống
tham
nhũng,
lãng
phí,
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-x/nghi-quyet-so-04-nqtw-ngay-2182006-hoi-nghi-lan-thu-ba-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-x-ve-tang-cuong-su-lanh-dao-602.
[16] Kết
luận
số
21-KL/TW,
ngày
25/5/2012,
Hội
nghị
lần
thứ
5
Ban
Chấp
hành
Trung
ương
Đảng
(khóa
XI)
về
việc
tiếp
tục
thực
hiện
Nghị
quyết
Hội
nghị
lần
thứ
3
BCHTW
(khóa
X)
về
tăng
cường
sự
lãnh
đạo
của
Đảng
đối
với
công
tác
phòng,
chống
tham
nhũng,
lãng
phí,
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-xi/ket-luan-so-21-kltw-ngay-2552012-hoi-nghi-lan-thu-5-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xi-ve-viec-tiep-tuc-thuc-hien-554.
[17] StAR
(
Stolen
Asset
Recovery
Initiative -
Sáng
kiến
thu
hồi
tài
sản
thất
thoát
–
là
chương
trình
hợp
tác
giữa
Nhóm
Ngân
hàng
thế
giới
và
Văn
phòng
Liên
hợp
quốc
về
Ma
túy
và
Tội
phạm
(UNODC)
hỗ
trợ
các
hoạt
động
của
quốc
tế
nhằm
chấm
dứt
tình
trạng
bao
che
tham
nhũng.
StAR
phối
hợp
với
các
nước
đang
phát
triển
và
trung
tâm
tài
chính
trong
ngăn
chặn
rửa
tiền
liên
quan
đến
tham
nhũng
và
tạo
điều
kiện
cho
việc
thu
hồi
các
tài
sản
thất
thoát
một
cách
đồng
bộ
và
kịp
thời.
Xem
tại
https://star.worldbank.org/.
[18] Thanh
tra
Chính
phủ
(2014),
Một
số
kinh
nghiệm
quốc
tế
về
công
tác
phòng,
chống
tham
nhũng,
Tái
bản
lần
hai,
Nxb.
Lao
động,
tr.
268-269.