Nâng
cao
hiệu
quả
thi
hành
pháp
luật
về
phòng,
chống
tham
nhũng
trong
giai
đoạn
hiện
nay
Thứ
bảy
-
27/05/2023
10:12
Tóm
tắt:
Bài
viết
khái
quát
quá
trình
hình
thành
pháp
luật
về
phòng,
chống
tham
nhũng
ở
Việt
Nam
từ
năm
1945
đến
nay,
đánh
giá
thực
tiễn
công
cuộc
đấu
tranh
phòng,
chống
tham
nhũng
trong
thời
gian
qua,
từ
đó,
đề
xuất
một
số
giải
pháp
nhằm
ngăn
chặn,
đẩy
lùi
tham
nhũng
ở
Việt
Nam
trong
thời
gian
tới.
Nâng
cao
hiệu
quả
thi
hành
pháp
luật
về
phòng,
chống
tham
nhũng
trong
giai
đoạn
hiện
nay
1.
Sự
ra
đời
và
phát
triển
của
pháp
luật
phòng,
chống
tham
nhũng
Ngay
sau
khi
Nhà
nước
Việt
Nam
dân
chủ
cộng
hòa
được
thành
lập
năm
1945,
dưới
sự
lãnh
đạo
của
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam,
Nhà
nước
ta
chủ
trương
vừa
đẩy
mạnh
sản
xuất,
tăng
cường
bảo
vệ
Tổ
quốc,
vừa
từng
bước
hoàn
thiện
các
chính
sách
quản
lý
kinh
tế,
quản
lý
xã
hội,
bảo
đảm
an
ninh
trật
tự
quốc
gia.
Ngay
tại
thời
điểm
đó,
Đảng
và
Chủ
tịch
Hồ
Chí
Minh
đã
coi
phòng,
chống
tham
nhũng
là
công
việc
quan
trọng
của
công
tác
xây
dựng
Đảng,
xây
dựng
chính
quyền
nhà
nước[1].
Ngày
23/11/1945,
Chủ
tịch
Hồ
Chí
Minh
ký
Sắc
lệnh
số
64
thành
lập
Ban
Thanh
tra
đặc
biệt
với
nhiệm
vụ:
Giám
sát
tất
cả
công
việc
và
nhân
viên
của
các
Ủy
ban
nhân
dân
(UBND)
và
các
cơ
quan
của
Chính
phủ.
Ngày
27/11/1946,
Chủ
tịch
Hồ
Chí
Minh
ký
Sắc
lệnh
số
223
về
việc
xử
phạt
tội
đưa
hối
lộ
cho
công
chức,
tội
công
chức
nhận
hối
lộ,
biển
thủ
công
quỹ
hay
của
công
dân.
Sắc
lệnh
số
223
được
coi
là
đạo
luật
chống
tham
nhũng
đầu
tiên
của
nước
Việt
Nam
Dân
chủ
Cộng
hòa.
Trong
sắc
lệnh
này
ghi
rõ:
Tội
đưa
hối
lộ
cho
công
chức,
tội
công
chức
nhận
hối
lộ
bị
phạt
tù
từ
05
năm
đến
20
năm
và
phạt
bạc
gấp
đôi
tang
vật
nhận
hối
lộ...
Trải
qua
các
giai
đoạn
phát
triển
của
lịch
sử,
hệ
thống
pháp
luật
phòng,
chống
tham
nhũng
của
Việt
Nam
ngày
càng
được
bổ
sung,
hoàn
thiện.
Trong
những
năm
qua,
Quốc
hội
và
Chính
phủ
đã
ban
hành
một
số
văn
bản
quy
phạm
pháp
luật
có
liên
quan
đến
phòng,
chống
tham
nhũng
như:
-
Pháp
lệnh
Chống
tham
nhũng
được
Ủy
ban
Thường
vụ
Quốc
hội
khóa
X
ban
hành
ngày
26/02/1998,
có
hiệu
lực
thi
hành
kể
từ
ngày
01/5/1998,
gồm
5
chương,
38
điều,
trong
đó
chương
III
gồm
10
điều,
từ
điều
21
đến
điều
30
quy
định
về
xử
lý
các
hành
vi
tham
nhũng
đã
quy
định
khá
chi
tiết,
cụ
thể
đối
với
các
hình
thức,
biện
pháp
và
mức
xử
lý
đối
với
các
hành
vi
tham
nhũng.
-
Pháp
lệnh
sửa
đổi,
bổ
sung
một
số
điều
của
Pháp
lệnh
Chống
tham
nhũng
được
Ủy
ban
Thường
vụ
Quốc
hội
khóa
X
ban
hành
ngày
28/04/2000,
có
hiệu
lực
kể
từ
ngày
01/7/2000,
sửa
đổi,
bổ
sung
Điều
3,
Điều
13,
Điều
21
của
Pháp
lệnh
Chống
tham
nhũng
năm
1998,
trong
đó,
quy
định
rõ
hơn
các
hành
vi
tham
nhũng,
những
việc
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
không
được
làm
và
các
hành
vi
tham
nhũng
bị
xử
lý
hình
sự;
đồng
thời
giao
Chính
phủ
quy
định
chi
tiết
và
hướng
dẫn
thi
hành
Pháp
lệnh
này.
Việc
ban
hành
Pháp
lệnh
này
đánh
dấu
bước
ngoặt
quan
trọng
về
cơ
sở
pháp
lý
cho
công
tác
phòng,
chống
tham
nhũng.
Thời
điểm
đó,
các
cấp,
các
ngành
đã
có
nhiều
cố
gắng
trong
việc
áp
dụng
các
biện
pháp
phòng
ngừa,
phát
hiện
và
xử
lý
kịp
thời
nhiều
vụ
việc
tham
nhũng.
Tuy
nhiên,
trong
quá
trình
áp
dụng
Pháp
lệnh
trên
đã
bộc
lộ
nhiều
hạn
chế
về
nội
dung
vì
chưa
có
nhiều
quy
định
về
phòng
ngừa
tham
nhũng.
Với
sự
vận
động
không
ngừng
của
các
quan
hệ
xã
hội,
hành
vi
tham
nhũng
ngày
càng
đa
dạng,
phức
tạp
diễn
ra
ở
nhiều
nơi,
nhiều
ngành,
ở
nhiều
lĩnh
vực.
Để
kịp
thời
điều
chỉnh,
từ
năm
2005
đến
nay,
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
đã
được
ban
hành,
sửa
đổi,
bổ
sung
và
hoàn
thiện,
cụ
thể:
-
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
được
Quốc
hội
khóa
XI,
kỳ
họp
thứ
8
thông
qua
ngày
29/11/2005,
có
hiệu
lực
thi
hành
từ
ngày
01/6/2006;
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
năm
2005
gồm
có
08
chương,
92
điều.
So
với
Pháp
lệnh
chống
tham
nhũng
năm
1998,
Luật
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
năm
2005
đã
nâng
cao
tính
pháp
lý,
bổ
sung
toàn
diện
hơn
quy
định
về
công
tác
phòng,
chống
tham
nhũng.
Tuy
nhiên,
sau
một
thời
gian
đi
vào
đời
sống,
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
năm
2005
đã
bộc
lộ
một
số
hạn
chế
dẫn
đến
phải
sửa
đổi,
bổ
sung
vào
năm
2007.
-
Luật
sửa
đổi,
bổ
sung
một
số
điều
của
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
được
Quốc
hội
khóa
XII,
kỳ
họp
thứ
nhất
thông
qua
ngày
04/8/2007,
có
hiệu
lực
thi
hành
từ
ngày
công
bố,
gồm
có
02
điều,
sửa
đổi,
bổ
sung
là:
Điều
73
về
Ban
Chỉ
đạo
phòng,
chống
tham
nhũng
và
Điều
74
về
giám
sát
công
tác
phòng,
chống
tham
nhũng.
-
Luật
sửa
đổi,
bổ
sung
một
số
điều
của
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
được
Quốc
hội
khóa
XIII,
kỳ
họp
thứ
4
thông
qua
ngày
23/11/2012;
có
hiệu
lực
thi
hành
từ
ngày
01/02/2013,
gồm
có
02
điều,
sửa
đổi,
bổ
sung
một
số
điều,
khoản,
điểm.
Đồng
thời,
Luật
cũng
quy
định
Chính
phủ
quy
định
chi
tiết,
hướng
dẫn
thi
hành
những
điều,
khoản
được
giao
trong
Luật.
Trên
cơ
sở
đó,
nhằm
cụ
thể
hóa
một
số
nội
dung
của
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
năm
2005
(được
sửa
đổi,
bổ
sung
vào
các
năm
2007,
2012),
Chính
phủ
đã
ban
hành
Nghị
định
số
59/2013/NĐ-CP
ngày
17/6/2013
quy
định
chi
tiết
một
số
điều
của
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng.
-
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
năm
2018
được
Quốc
hội
khóa
XIV,
kỳ
họp
thứ
6
thông
qua
ngày
20/11/2018
có
hiệu
lực
thi
hành
ngày
01/7/2019,
gồm
có
10
chương,
96
điều.
Luật
bổ
sung
các
quy
định
mới:
Mở
rộng
đối
tượng
phải
kê
khai
tài
sản,
thu
nhập;
thêm
một
số
loại
tài
sản,
thu
nhập
phải
kê
khai;
biến
động
tài
sản
từ
300
triệu
đồng
trở
lên
trong
năm
phải
kê
khai
bổ
sung;
thời
điểm
kê
khai
tài
sản,
thu
nhập
hàng
năm
trước
ngày
31
tháng
12;
bản
kê
khai
tài
sản,
thu
nhập
phải
được
công
khai;
kê
khai
không
trung
thực
có
thể
bị
buộc
thôi
việc;
quy
định
rõ
trách
nhiệm
của
người
đứng
đầu
và
người
liên
đới
trách
nhiệm
nếu
xảy
ra
tham
nhũng
tại
cơ
quan,
đơn
vị.
Việc
bổ
sung
các
quy
định
điều
chỉnh
của
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
năm
2018
nhằm
bao
quát
hết
các
hoạt
động
ngày
càng
phong
phú
trong
thực
tiễn,
đặc
biệt
là
đề
cao
trách
nhiệm
của
cá
nhân
người
kê
khai
tài
sản,
thu
nhập,
vai
trò
trách
nhiệm
của
người
đứng
đầu
nhằm
phòng
ngừa
tham
nhũng.
Cùng
với
đó,
Bộ
luật
Hình
sự
năm
2015
(sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2017)
có
hiệu
lực
từ
ngày
01/01/2018,
đã
áp
dụng
đối
với
các
hành
vi
tham
nhũng
ngoài
nhà
nước.
Chính
vì
thế,
hoạt
động
phòng,
chống
tham
nhũng
được
mở
rộng
hơn
và
áp
dụng
có
chiều
sâu
trên
nhiều
lĩnh
vực.
Song
song
với
việc
hoàn
thiện
pháp
luật
về
phòng,
chống
tham
nhũng,
Quốc
hội
và
Chính
phủ
đã
ban
hành
một
số
văn
bản
quy
phạm
pháp
luật
có
liên
quan
đến
phòng,
chống
tham
nhũng
như:
Luật
Thực
hành
tiết
kiệm,
chống
lãng
phí
năm
2005;
Luật
Cán
bộ,
công
chức
năm
2008;
Luật
Viên
chức
năm
2010;
Luật
Thanh
tra
năm
2010;
Luật
Khiếu
nại
năm
2011;
Luật
Tố
cáo
năm
2011;
Luật
sửa
đổi,
bổ
sung
một
số
điều
tại
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
năm
2012;
Luật
Thực
hành
tiết
kiệm,
chống
lãng
phí
năm
2013;
Luật
Tiếp
công
dân
năm
2013;
Bộ
luật
Hình
sự
năm
2015
(sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2017);
Luật
Tiếp
cận
thông
tin
năm
2016;
Luật
Báo
chí
năm
2016…
và
các
nghị
quyết
của
Quốc
hội,
nghị
định
hướng
dẫn
thi
hành
của
Chính
phủ,
quyết
định
của
Thủ
tướng
Chính
phủ,
các
thông
tư
hướng
dẫn
của
các
bộ,
ngành
đã
tạo
ra
một
hành
lang
pháp
lý
tương
đối
toàn
diện
về
phòng,
chống
tham
nhũng.
Những
quy
định
này
đã
thể
hiện
mức
độ
tuân
thủ
cao
Công
ước
Liên
Hợp
quốc
về
Chống
tham
nhũng
của
Việt
Nam.
2.
Thực
tiễn
công
cuộc
đấu
tranh
phòng,
chống
tham
nhũng
Trong
những
năm
qua,
công
cuộc
phòng,
chống
tham
nhũng
luôn
được
Đảng,
Nhà
nước
quan
tâm
trong
công
tác
xây
dựng
Đảng,
xây
dựng
Nhà
nước
pháp
quyền
xã
hội
chủ
nghĩa.
Công
cuộc
đấu
tranh
phòng,
chống
tham
nhũng
không
những
được
sự
đồng
lòng
ủng
hộ
của
toàn
dân
mà
còn
được
quốc
tế
đánh
giá
cao.
Với
phương
châm
“không
có
vùng
cấm,
không
có
ngoại
lệ”
trong
đấu
tranh,
xử
lý
các
vụ
án
tham
nhũng,
thời
gian
qua
các
“đại
án”
tham
nhũng
đã
được
xử
lý
nghiêm
minh,
bước
đầu
tạo
được
niềm
tin
trong
quần
chúng
nhân
dân,
thu
hồi
được
nhiều
tài
sản
của
Nhà
nước,
của
nhân
dân.
Tuy
nhiên,
công
tác
đấu
tranh
phòng,
chống
tham
nhũng,
tiêu
cực
là
chặng
đường
còn
dài,
đầy
khó
khăn,
thử
thách.
Hành
vi
tham
nhũng
ngày
càng
tinh
vi
dưới
nhiều
hình
thức,
xảy
ra
ở
nhiều
nơi,
nhiều
ngành,
nhiều
địa
phương.
Nhiệm
vụ
công
tác
phòng,
chống
tham
nhũng,
tiêu
cực
ngày
càng
nặng
nề.
Pháp
luật
về
phòng,
chống
tham
nhũng
vẫn
chưa
đáp
ứng
được
yêu
cầu
của
công
cuộc
đẩy
mạnh
phòng,
chống
tham
nhũng
của
Đảng,
Nhà
nước
đã
đề
ra,
vẫn
còn
một
số
hạn
chế,
bất
cập:
Một
là, quy
định
về
công
khai,
minh
bạch
còn
chưa
mang
tính
bao
quát
và
thiếu
các
biện
pháp
bảo
đảm
thực
hiện,
đặc
biệt
là
chưa
làm
rõ
về
nguyên
tắc,
hình
thức,
nội
dung,
thời
gian,
trách
nhiệm
thực
hiện
công
khai,
minh
bạch;
nội
dung
công
khai,
minh
bạch
theo
ngành,
lĩnh
vực
trùng
lặp
với
quy
định
về
công
khai
trong
nhiều
văn
bản
pháp
luật
chuyên
ngành;
chế
độ
thông
tin,
báo
cáo,
đo
lường,
đánh
giá
về
thực
trạng
tham
nhũng
và
công
tác
phòng,
chống
tham
nhũng
chưa
cụ
thể.
Hai
là, quy
định
về
trách
nhiệm
giải
trình
chưa
phù
hợp,
chưa
toàn
diện;
trình
tự,
thủ
tục
và
nội
dung
thực
hiện
trách
nhiệm
giải
trình
còn
chưa
rõ
ràng,
chưa
mang
tính
khả
thi,
chưa
gắn
với
việc
thực
hiện
các
biện
pháp
phòng
ngừa
khác,
đặc
biệt
là
biện
pháp
về
công
khai,
minh
bạch
trong
hoạt
động
của
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị.
Ba
là, chưa
quy
định
một
cách
đầy
đủ,
toàn
diện
về
kiểm
soát
xung
đột
lợi
ích
đối
với
cán
bộ,
công
chức,
viên
chức
trong
thực
hiện
nhiệm
vụ,
công
vụ;
một
số
biện
pháp
hiệu
quả
còn
hạn
chế
như:
Thiếu
cơ
chế
giám
sát,
tiếp
nhận,
xử
lý
thông
tin,
phản
ánh
vi
phạm
về
nhận,
tặng
quà;
thiếu
biện
pháp
xử
lý
cụ
thể;
chưa
khắc
phục
được
việc
tặng
và
nhận
quà
đối
với
người
thân
thích
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
liên
quan
đến
công
vụ;
chưa
kiểm
soát
được
hoạt
động
và
thu
nhập
ngoài
công
vụ
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn….
Bốn
là, các
quy
định
về
xử
lý
trách
nhiệm
của
người
đứng
đầu
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị
khi
để
xảy
ra
hành
vi
tham
nhũng
trong
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị
mình
còn
chưa
cụ
thể,
chưa
rõ
ràng
và
không
khuyến
khích
được
tính
chủ
động
của
người
đứng
đầu
trong
phòng
ngừa,
phát
hiện
hành
vi
tham
nhũng;
cơ
chế
xác
định
người
đứng
đầu
và
phân
định
rõ
trách
nhiệm
của
người
đứng
đầu
còn
thiếu
cụ
thể…
Năm
là, các
quy
định
về
minh
bạch
tài
sản,
thu
nhập
chưa
giúp
kiểm
soát
biến
động
về
thu
nhập;
còn
vướng
mắc
về
trình
tự,
thủ
tục
công
khai
bản
kê
khai,
giải
trình,
xác
minh
tài
sản,
thu
nhập
khi
có
yêu
cầu;
chưa
quy
định
rõ
việc
sử
dụng
bản
kê
khai
tài
sản
vào
mục
đích
phòng
ngừa,
phát
hiện,
xử
lý
tham
nhũng;
thiếu
quy
định
về
việc
xử
lý
tài
sản,
thu
nhập
không
được
giải
trình
một
cách
hợp
lý
và
thời
hạn
người
kê
khai
tài
sản,
thu
nhập
có
nghĩa
vụ
giải
trình
về
tài
sản,
thu
nhập…
Sáu
là, các
quy
định
về
cơ
chế
phát
hiện
tham
nhũng
thông
qua
hoạt
động
của
cơ
quan,
tổ
chức
có
thẩm
quyền
chưa
phù
hợp,
đặc
biệt
là
cơ
chế
phối
hợp
giữa
cơ
quan
thanh
tra,
kiểm
toán
với
cơ
quan
điều
tra
trong
phòng
ngừa,
phát
hiện,
xử
lý
tham
nhũng
chưa
phát
huy
vai
trò
của
mỗi
cơ
quan
trong
xử
lý
vụ
việc
có
dấu
hiệu
tham
nhũng.
Bảy
là, các
quy
định
về
tố
cáo
và
giải
quyết
tố
cáo
hành
vi
tham
nhũng
còn
thiếu
các
biện
pháp
bảo
đảm
thực
hiện,
đặc
biệt
là
các
biện
pháp
bảo
vệ
người
tố
cáo,
khen
thưởng
người
có
thành
tích
trong
tố
cáo
tham
nhũng,
các
quy
định
chưa
bao
quát
được
hết
các
tình
huống
phát
sinh
trên
thực
tế
như
việc
tiếp
nhận
và
xử
lý
thông
tin,
phản
ánh
về
hành
vi
có
dấu
hiệu
tham
nhũng.
Tám
là, chưa
xác
định
rõ
vị
trí,
vai
trò
và
mối
quan
hệ
giữa
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
và
các
văn
bản
khác
trong
hệ
thống
pháp
luật
dẫn
đến
cách
hiểu
và
vận
dụng
chưa
thống
nhất,
đặc
biệt
là
với
các
quy
định
của
Bộ
luật
Hình
sự;
thiếu
quy
định
về
các
biện
pháp
xử
lý
phi
hình
sự
đối
với
tổ
chức,
cá
nhân
có
liên
quan
đến
hành
vi
tham
nhũng
và
thiếu
quy
định
về
trình
tự,
thủ
tục,
thẩm
quyền
để
xử
lý
các
hành
vi
vi
phạm
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng.
Theo
như
đánh
giá
tổng
kết
10
năm
công
tác
phòng,
chống
tham
nhũng
(từ
năm
2012
đến
năm
2022)
chúng
ta
đã
gặt
hái
được
những
thành
quả
nhất
định:
“đạt
được
nhiều
kết
quả
quan
trọng,
góp
phần
củng
cố,
nâng
cao
ý
chí,
niềm
tin
của
nhân
dân
vào
công
cuộc
đổi
mới,
xây
dựng
và
bảo
vệ
Tổ
quốc,
làm
cho
đất
nước
ta
ngày
càng
giàu
mạnh,
ngày
càng
phát
triển,
có
vị
thế
xứng
đáng
trên
trường
quốc
tế”[2].
Bên
cạnh
những
kết
quả
đạt
được,
thì
công
tác
phòng,
chống
tham
nhũng,
tiêu
cực
vẫn
còn
những
hạn
chế,
tồn
tại
như:
“Một
số
bộ,
ban,
ngành,
địa
phương
chưa
có
quyết
tâm
cao,
chưa
có
sự
chuyển
biến
mạnh...
Tình
trạng
nhũng
nhiễu,
tiêu
cực
trong
khu
vực
hành
chính,
dịch
vụ
công
chưa
được
ngăn
chặn
có
hiệu
quả.
Tham
nhũng
trên
một
số
lĩnh
vực
vẫn
nghiêm
trọng,
phức
tạp,
với
những
biểu
hiện
ngày
càng
tinh
vi,
xảo
trá,
gây
bức
xúc
trong
xã
hội.
Tham
nhũng,
tiêu
cực
vẫn
là
một
trong
những
“kẻ
thù
hung
ác”,
nguy
cơ
đe
dọa
sự
tồn
vong
của
Đảng
và
chế
độ
ta”[3].
Cho
đến
thời
điểm
hiện
tại,
tham
nhũng
không
chỉ
diễn
ra
trong
lĩnh
vực
kinh
tế,
tài
chính…
mà
còn
diễn
ra
ngay
cả
ở
những
lĩnh
vực
an
sinh
-
xã
hội,
tưởng
như
là
vùng
cấm
không
thể
tham
nhũng,
đó
là:
Y
tế,
giáo
dục,
khoa
học,…
nhất
là
trong
bối
cảnh
toàn
Đảng,
toàn
quân
và
toàn
dân
ta
đã
và
đang
phải
gồng
mình
chống
đại
dịch
Covid-19
và
nhiều
dịch
bệnh
khác.
Đây
thật
sự
là
điều
rất
đáng
lo
ngại,
ảnh
hưởng
tiêu
cực
đến
nhiều
mặt
của
đời
sống
xã
hội,
gây
bất
bình
trong
nhân
dân.
Trong
công
cuộc
đấu
tranh
phòng,
chống
tham
nhũng,
chúng
ta
cũng
không
chủ
quan
nóng
vội,
cũng
không
được
né
tránh,
cầm
chừng;
mà
phải
“rất
kiên
trì”,
không
“ngừng”
không
“nghỉ”;
vừa
phải
kiên
quyết
phát
hiện,
xử
lý
tham
nhũng,
vừa
phải
kiên
trì
giáo
dục,
quản
lý,
ngăn
ngừa,
răn
đe,
không
để
xảy
ra
tham
nhũng;
đồng
thời
“cảnh
giác,
đấu
tranh
với
những
âm
mưu,
hoạt
động
của
các
thế
lực
thù
địch,
phần
tử
xấu
lợi
dụng
đấu
tranh
phòng,
chống
tham
nhũng
để
kích
động,
chia
rẽ,
chống
phá
Đảng,
Nhà
nước
và
chế
độ
ta[4].
Đấu
tranh
phòng,
chống
tham
nhũng
là
một
nhiệm
vụ,
vì
vậy,
đòi
hỏi
phải
được
thực
hiện
thận
trọng,
tỉnh
táo,
bài
bản,
không
gây
hoang
mang,
dao
động,
không
thể
thỏa
hiệp,
xuôi
chiều.
3.
Một
số
kiến
nghị,
đề
xuất
Để
khắc
phục
những
hạn
chế,
bất
cập
nêu
trên,
đồng
thời,
tiếp
tục
thực
hiện
các
chủ
trương,
nghị
quyết
của
Đảng
về
phòng,
chống
tham
nhũng.
Từng
bước
mở
rộng
hoạt
động
phòng,
chống
tham
nhũng
ra
khu
vực
ngoài
nhà
nước,
kiểm
soát
có
hiệu
quả
về
tài
sản,
thu
nhập
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn,
tăng
cường
trách
nhiệm
người
đứng
đầu,
bảo
đảm
tính
đồng
bộ
với
quy
định
liên
quan
đến
phòng,
chống
tham
nhũng
trong
các
đạo
luật
được
Quốc
hội
thông
qua
và
nâng
cao
mức
độ
tuân
thủ
Công
ước
Liên
Hợp
quốc
về
Chống
tham
nhũng,…
trong
thời
gian
tới,
chúng
ta
cần
phải
thực
hiện
đồng
bộ
một
số
giải
pháp
sau:
Một
là, tiếp
tục
đẩy
mạnh
công
tác
giáo
dục,
tuyên
truyền,
sâu
rộng
các
mục
tiêu,
quan
điểm,
nhiệm
vụ,
giải
pháp,
quy
định
của
Đảng
và
pháp
luật
của
Nhà
nước
về
phòng,
chống
tham
nhũng,
tiêu
cực.
Việc
tuyên
truyền
tới
từng
người
dân,
từng
địa
phương,
các
cấp,
các
ngành
sẽ
thúc
đẩy
sự
tự
giác,
thống
nhất
cao
về
nhận
thức
và
hành
động
trong
cán
bộ
công
chức,
viên
chức,
người
lao
động
và
nhân
dân
về
phòng,
chống
tham
nhũng,
tiêu
cực,
từ
đó
nêu
cao
tinh
thần
gương
mẫu
của
người
đứng
đầu
cấp
ủy
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị,
địa
phương.
Hình
thành
và
xây
dựng
văn
hóa
tiết
kiệm,
chống
lãng
phí
trong
cán
bộ,
đảng
viên,
công
chức,
viên
chức.
Tư
tưởng
này
cần
phải
được
quán
triệt,
phổ
biến
rộng
rãi
và
phải
đi
vào
thực
chất,
từ
đó,
tạo
bước
chuyển
biến
tích
cực,
căn
bản
về
nhận
thức,
thống
nhất
trong
hành
động.
Hai
là, xây
dựng
đội
ngũ
cán
bộ
làm
công
tác
phòng,
chống
tham
nhũng,
tiêu
cực
có
bản
lĩnh
vững
vàng,
có
dũng
khí
đấu
tranh;
phải
trung
thực,
liêm
chính.
Để
cán
bộ
công
chức
chuyên
tâm
và
nêu
cao
tinh
thần
trách
nhiệm
trong
công
tác
đấu
tranh
phòng,
chống
tham
nhũng,
cần
có
chính
sách
đãi
ngộ
hợp
lý,
tạo
động
lực
cho
đội
ngũ
cán
bộ
làm
công
tác
phòng,
chống
tham
nhũng,
tiêu
cực
nỗ
lực
phấn
đấu,
toàn
tâm,
toàn
ý
với
công
việc.
Ba
là, nghiêm
túc
thực
hiện
phương
châm
“không
có
vùng
cấm,
không
có
ngoại
lệ”
và
sử
dụng
đồng
bộ
các
biện
pháp
chính
trị,
tư
tưởng,
tổ
chức,
hành
chính,
kinh
tế,
hình
sự
trong
đấu
tranh,
phát
hiện
và
xử
lý
tham
nhũng.
Chỉ
khi
tiến
hành
triệt
để,
kiên
quyết,
đồng
bộ
thì
công
tác
phòng,
chống
tham
nhũng
mới
đạt
kết
quả
cuối
cùng
và
bảo
đảm
tính
răn
đe
trong
thực
tế.
Bốn
là, tiếp
tục
xây
dựng,
hoàn
thiện
các
quy
định
của
Đảng,
pháp
luật
của
Nhà
nước
về
phòng,
chống
tham
nhũng,
tiêu
cực.
Tăng
cường
công
tác
kiểm
tra,
giám
sát,
phát
hiện
sớm,
xử
lý
nghiêm
các
vụ
việc,
vụ
án
tham
nhũng,
tiêu
cực.
Công
tác
thanh
tra,
kiểm
toán,
điều
tra,
truy
tố,
xét
xử
phải
được
thực
hiện
một
cách
hiệu
quả,
bảo
đảm
tính
khách
quan,
công
khai,
minh
bạch;
kiên
quyết
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
góp
phần
khắc
phục,
hạn
chế
hậu
quả
của
tham
nhũng,
đồng
thời
thể
hiện
tính
răn
đe
của
pháp
luật.
Năm
là, cần
xây
dựng
cơ
chế
bảo
vệ,
khen
thưởng,
động
viên
kịp
thời
những
người
tích
cực,
dũng
cảm
phát
giác,
đấu
tranh
chống
tham
nhũng.
ThS.
Hoàng
Thị
Thùy
Linh
Tòa
án
nhân
dân
Thành
phố
Hòa
Bình
[1].
Vụ
án
Trần
Dụ
Châu
là
ví
dụ
điển
hình:
Sau
khi
Tòa
án
binh
Tối
cao
mở
phiên
tòa
đặc
biệt
tuyên
án:
Đại
tá
Trần
Dụ
Châu,
Cục
trưởng
Cục
Quân
nhu
(Bộ
Quốc
phòng)
tử
hình
về
tội
tham
nhũng;
bị
cáo
đã
gửi
đơn
xin
ân
giảm
lên
Chủ
tịch
Hồ
Chí
Minh.
Hồ
Chủ
tịch
đã
bác
đơn
xin
tha
tội
chết
của
Trần
Dụ
Châu.
Vụ
án
đã
xảy
ra
hơn
nửa
thế
kỷ
trước
đây
vẫn
là
bài
học
quý
cho
việc
chống
tham
nhũng,
lãng
phí
hiện
nay.
[2].
Phát
biểu
của
Tổng
Bí
thư
Nguyễn
Phú
Trọng
tại
Hội
nghị
toàn
quốc
tổng
kết
10
năm
công
tác
đấu
tranh
phòng,
chống
tham
nhũng
giai
đoạn
2012
-
2022
và
những
định
hướng
hoạt
động
trong
giai
đoạn
tới:
“Đấu
tranh
phòng,
chống
tham
nhũng,
tiêu
cực:
Nhìn
lại
10
năm
qua;
định
ra
phương
hướng
nhiệm
vụ
cho
thời
gian
tới”,
https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc/dau-tranh-phong-chong-tham-nhung-tieu-cuc-nhin-lai-10-nam-qua-dinh-ra-phuong-huong-nhiem-vu-cho-thoi-gian-toi-69861
,
truy
cập
ngày
03/12/2022.
[3].
Tlđd.
[4].
Tlđd..
Nguồn
tin:
tcdcpl.moj.gov.vn
Từ
khóa:
tóm
tắt,
khái
quát,
quá
trình,
pháp
luật,
tham
nhũng,
đánh
giá,
thực
tiễn,
đấu
tranh,
thời
gian,
giải
pháp,
ngăn
chặn
Những
tin
mới
hơn
Những
tin
cũ
hơn
Cơ
quan
chủ
quản:
THANH
TRA
THÀNH
PHỐ
TAM
KỲ-
TỈNH
QUẢNG
NAM
Địa
chỉ
cơ
quan:
70
Hùng
Vương -Thành
phố
Tam
Kỳ-
Tỉnh
Quảng
Nam
Điện
thoại: 0235.3810268
Chịu
trách
nhiệm
nội
dung:
Thanh
phố
Tam
Kỳ.
Ghi
rõ
nguồn
'http://thanhtratamky.gov.vn'
khi
bạn
phát
hành
lại
thông
tin
từ
Website
này.