Hoàn
thiện
thể
chế
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
ở
Việt
Nam
hiện
nay
Thứ
bảy
-
31/10/2020
02:03
Tại
Việt
Nam,
trong
những
năm
gần
đây,
tệ
nạn
tham
nhũng
đã
ở
mức
nghiêm
trọng
đáng
báo
động.
Tham
nhũng
không
chỉ
xảy
ra
ở
cấp
trung
ương,
ở
các
chương
trình,
dự
án
lớn
mà
ngay
tại
chính
quyền
cơ
sở,
nơi
tiếp
xúc
giải
quyết
hàng
ngày
các
vấn
đề
của
dân
cũng
xảy
ra
các
hiện
tượng
cửa
quyền,
nhũng
nhiễu,
trục
lợi.
Hoàn
thiện
thể
chế
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
ở
Việt
Nam
hiện
nay
Nhiều
ngành,
nghề
được
xã
hội
tôn
vinh
và
thừa
nhận
vị
thế
như
ngành
y,
ngành
giáo
dục
và
các
cơ
quan
bảo
vệ
pháp
luật
cũng
xuất
hiện
các
vấn
đề
tiêu
cực,
vi
phạm
pháp
luật.
Tham
nhũng
và
đặc
biệt
tham
nhũng
vặt
như
thứ
ung
nhọt
làm
suy
yếu
hệ
thống
chính
trị,
khiến
người
dân
mất
niềm
tin
vào
chính
quyền
nhân
dân.
Chính
vì
vậy,
Nghị
quyết
số
04-NQ/TW
ngày
21/8/2006
của
Hội
nghị
lần
thứ
3
Ban
chấp
hành
Trung
ương
Đảng
khóa
X
về
tăng
cường
sự
lãnh
đạo
của
Đảng
đối
với
công
tác
phòng
chống
tham
nhũng,
Nghị
quyết
số
04-NQ/TW
ngày
30/10/2016
của
Ban
chấp
hành
Trung
ương
Đảng
khóa
XII
đã
đặt
ra
vấn
đề
tăng
cường
chỉnh
đốn
Đảng,
ngăn
chặn
đẩy
lùi
sự
suy
thoái
về
tư
tưởng
chính
trị,
đạo
đức,
lối
sống…,
coi
tham
nhũng,
lãng
phí
là
vấn
nạn
quốc
gia,
là
nguy
cơ
đe
dọa
sự
tồn
vong
của
chế
độ.
Trên
tinh
thần
đó,
việc
ban
hành
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
năm
2018
vừa
đáp
ứng
nhu
cầu
và
diễn
biến
phức
tạp
của
vấn
nạn
tham
nhũng
hiện
nay,
vừa
bảo
đảm
tính
đồng
bộ
với
các
luật
khác
trong
hệ
thống
pháp
luật
như
Luật
Ngân
sách
nhà
nước,
Luật
Đầu
tư
công,
Luật
Doanh
nghiệp,
Bộ
luật
Hình
sự,
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự,
Bộ
luật
Dân
sự,
Bộ
luật
Tố
tụng
dân
sự,
Luật
Phòng,
chống
rửa
tiền…
Có
thể
nhận
thấy,
lần
sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2018
của
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
khá
toàn
diện
về:
Đối
tượng
điều
chỉnh
mở
rộng
sang
khu
vực
ngoài
nhà
nước;
đổi
mới
mô
hình
cơ
quan
phòng
chống
tham
nhũng;
xây
dựng
các
biện
pháp
nhận
diện
và
kiểm
soát
xung
đột
lợi
ích,
kiểm
soát
thu
nhập
và
tài
sản
cá
nhân,
các
cơ
chế
thu
hồi
tài
sản;
luật
hóa
vấn
đề
quà
tặng
và
nhận
và
nộp
lại
quà
tặng…
Tuy
nhiên,
khi
triển
khai
tổ
chức
thực
hiện
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
năm
2018
từ
tháng
01/7/2019,
chúng
ta
vẫn
gặp
phải
rất
nhiều
rào
cản
do
khung
pháp
lý
còn
khá
chung.
Ngoài
Nghị
định
số
59/2019/NĐ-CP
ngày
01/7/2019
của
Chính
phủ
về
quy
định
chi
tiết
một
số
điều
và
biện
pháp
thi
hành
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng,
các
nghị
định,
thông
tư
khác
hướng
dẫn
Luật
vẫn
đang
trong
quá
trình
dự
thảo.
Bên
cạnh
đó,
một
số
cá
nhân
là
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
có
tâm
lý
ngại
ngần,
né
tránh
va
chạm;
vẫn
còn
sự
thiếu
hụt
từ
truyền
thông
và
công
tác
giải
thích
pháp
luật
cho
cán
bộ,
công
chức
và
nhân
dân
cùng
nắm
rõ
và
giám
sát
quá
trình
phòng,
chống
tham
nhũng.
Trước
những
tồn
tại
trong
thực
tiễn
phòng
ngừa,
đấu
tranh
chống
tệ
tham
nhũng,
yêu
cầu
phải
thực
hiện
những
giải
pháp
mang
tính
chất
đồng
bộ,
trong
đó,
hoàn
thiện
hệ
thống
thể
chế
là
vấn
đề
đầu
tiên
cần
phải
tiến
hành
bởi
lẽ,
việc
kiểm
soát
tài
sản
thu
nhập
của
người
có
chức
vụ
quyền
hạn
giải
quyết
hài
hòa
một
số
vấn
đề
“nhạy
cảm”.
Trước
hết,
quá
trình
này
tác
động
trực
tiếp
đến
quyền
tự
do,
bí
mật
đời
tư
cá
nhân
mà
cụ
thể
là
quyền
tài
sản
của
người
bị
kiểm
soát.
Bên
cạnh
đó,
do
đối
tượng
của
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
của
là
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
nên
thực
tiễn
đấu
tranh
lại
càng
khó
khăn.
Nếu
không
có
hành
lang
pháp
lý
chặt
chẽ
thì
dễ
dàng
dẫn
đến
khả
năng
vừa
không
bảo
đảm
tính
hiệu
lực,
hiệu
quả
của
hoạt
động
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
của
người
có
quyền
hạn
chức
vụ,
vừa
xâm
phạm
nghiêm
trọng
đến
quyền
và
lợi
ích
hợp
pháp
của
các
chủ
thể
bị
kiểm
soát.
Việc
xây
dựng
những
quy
định
về
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
phải
giải
quyết
được
trọn
vẹn
các
nội
dung
cơ
bản
của
hoạt
động
này
bao
gồm:
(i)
Đối
tượng
của
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập;
(ii)
Phạm
vi
của
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập;
(iii)
Biện
pháp
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập;
(iv)
Các
biện
pháp
xử
lý
vi
phạm
quy
định
về
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập.
Bên
cạnh
đó,
pháp
luật
về
phòng,
chống
tham
nhũng
quy
định
về
kiểm
soát
thu
nhập,
tài
sản
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
với
tư
cách
là
pháp
luật
chuyên
ngành
phải
có
sự
thống
nhất
với
hệ
thống
với
các
hệ
thống
pháp
luật
khác
như
pháp
luật
hình
sự,
dân
sự,
pháp
luật
về
tố
tụng
tư
pháp,
pháp
luật
về
tổ
chức
và
hoạt
động
của
các
cơ
quan
bảo
vệ
pháp
luật...
1.
Hoàn
thiện
quy
định
về
đối tượng của
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
Hiện
nay,
theo
quy
định
của
pháp
luật
về
phòng,
chống
tham
nhũng,
tài
sản,
thu
nhập
phải
kê
khai
bao
gồm:
Quyền
sử
dụng
đất,
nhà
ở,
công
trình
xây
dựng
và
tài
sản
khác
gắn
liền
với
đất,
nhà
ở,
công
trình
xây
dựng;
kim
khí
quý,
đá
quý,
tiền,
giấy
tờ
có
giá
và
động
sản
khác
mà
mỗi
tài
sản
có
giá
trị
từ
50.000.000
đồng
trở
lên;
tài
sản,
tài
khoản
ở
nước
ngoài;
tổng
thu
nhập
giữa
02
lần
kê
khai.
Quy
định
như
vậy
là
chung
chung,
chỉ
nhắm
đến
những
tài
đã
hình
thành
và
đang
bỏ
sót
một
đối
tượng
khác
là
các
tài
sản
hình
thành
trong
tương
lai
(gồm
tài
sản
chưa
hình
thành;
tài
sản
đã
hình
thành
nhưng
chủ
thể
xác
lập
quyền
sở
hữu
tài
sản
sau
thời
điểm
xác
lập
giao
dịch).
Bản
thân
việc
liệt
kê
các
tài
sản
đã
hình
thành
như
khoản
1
Điều
35
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
năm
2018
chưa
phản
ánh
đầy
đủ
thực
tiễn
phòng,
chống
tham
nhũng
trong
thực
tế,
không
phản
ánh
đầy
đủ
bản
chất,
phạm
vi
của
thu
nhập,
tài
sản.
(Xem Clip
tuyên
truyền
Luật
Phòng
chống
tham
nhũng
và
Nghị
định
59
củaTiến
sĩ
Nguyễn
Tuấn
Khanh)
Để
khắc
phục
hạn
chế
này,
tác
giả
đề
xuất
ra
02
phương
án:
Phương
án
1 -
Sửa
đổi
quy
định
của
Điều
35
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
năm
2018:
Khi
nghiên
cứu
phạm
vi
của
tài
sản,
thu
nhập
mà
Điều
35
quy
định,
dễ
dàng
nhận
thấy
một
hạn
chế
trong
pháp
luật
phòng,
chống
tham
nhũng
chính
là
việc
không
ghi
nhận
một
khái
niệm
khoa
học
phản
ánh
đầu
đủ
nội
hàm
của
“tài
sản”
và
“thu
nhập”.
Thay
vào
đó,
nhà
làm
luật
chỉ
dừng
lại
ở
việc
liệt
kê
một
cách
cơ
học,
dẫn
đến
việc
phạm
vi
của
khoản
1
Điều
35
có
nguy
cơ
bị
thiếu,
không
bao
trùm
được
đến
các
đối
tượng
khác
có
thể
xuất
hiện
trong
thực
tiễn
phòng,
chống
tham
nhũng.
Để
thực
hiện
được
phương
án
này,
các
nhà
lập
pháp
cần
phải
xây
dựng
một
khái
niệm
khoa
học
chung,
phản
ánh
đúng
bản
chất
của
“tài
sản”,
“thu
nhập”
cũng
như
các
khái
niệm
khác
trong
các
quy
phạm
pháp
luật.
Tuy
nhiên,
điều
này
sẽ
dẫn
đến
yêu
cầu
sửa
đổi
đồng
bộ
nhiều
đạo
luật
khác
trong
hệ
thống
pháp
luật
Việt
Nam
nhằm
bảo
đảm
tính
đồng
bộ,
thống
nhất
của
pháp
luật.
Phương
án
2 - Ban
hành
các
văn
bản
hướng
dẫn,
cụ
thể
hóa
các
quy
định
của
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
năm
2018:
Trường
hợp
không
sửa
đổi
Điều
35
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
năm
2018,
cần
phải
có
các
văn
bản
hướng
dẫn
cụ
thể,
quy
định
chi
tiết
phạm
vi
của
hoạt
động
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
đối
với
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
tại
các
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
cũng
như
người
thân
trong
gia
đình
của
đối
tượng
này.
Cụ
thể:
Một
là,
đối
với
đất,
nhà,
tài
sản
gắn
liền
với
với
đất
mà
đối
tượng
có
nghĩa
vụ
kê
khai
phải
kê
khai,
cần
quy
định
rõ
bao
gồm:
Quyền
sử
dụng
đất;
quyền
sở
hữu
và
quyền
sử
dụng
đối
với
tài
sản,
nhà
ở,
tài
sản
khác
gắn
liền
với
đất,
nhà,
công
trình
xây
dựng đã
có,
đang
làm
thủ
tục cấp
giấy
chứng
nhận
quyền
sử
dụng
đất,
giấy
chứng
nhận
quyền
sở
hữu
nhà
ở,
tài
sản
theo
quy
định
của
pháp
luật
và
trong
cả
trường
hợp
không
có
các
giấy
tờ
trên
nhưng đã
sử
dụng
ổn
định,
lâu
dài
từ
12
tháng
trở
lên để
phòng
ngừa
trường
hợp
các
chủ
tài
sản
thường
“nhờ”
thành
viên
khác
đứng
tên
với
các
bản
thỏa
thuận
lợi
ích
ngầm
mà
cơ
quan
chức
năng
không
thể
kiểm
soát
được
(bao
gồm
cả
trường
hợp
thuê,
mượn,
trông
coi
giúp
tài
sản,
nhà
ở...).
Hai
là,
ngoài
tiền,
tài
sản
đã
hình
thành,
các
khoản
thu
nhập…,
cần
xác
định
các
tài
sản
hình
thành
trong
tương
lai,
các
giá
trị
hưởng
lợi
khác
mà
đối
tượng
bị
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
đang
hoặc
sẽ
được
thụ
hưởng
trong
tương
lai
thông
qua
các
giao
dịch,
hợp
đồng;
các
khoản
bồi
hoàn/bồi
thường/bảo
hiểm…
Ngoài
ra,
để
chặt
chẽ,
đề
tài
kiến
nghị
các
chủ
thể
bị
kiểm
soát
tài
sản
kê
khai
cả
ô
tô,
tài
khoản
ngân
hàng,
thiết
bị,
nhà
xưởng,
các
tài
sản
khác
(đang
quản
lý,
hưởng
lợi…)
tránh
tình
trạng
“nhờ”
đứng
tên
hộ.
Ba
là,
bổ
sung
các
quy
định
về
tài
sản
có
giá
trị
trên
50.000.000
đồng
cho
nhóm
tài
sản
là
đồ
mỹ
nghệ,
tranh
ảnh,
cây
cảnh,
thú
nuôi
có
giá
trị,
đồ
thờ
tự,
tiền
điện
tử
và
quyền
tài
sản
với
đối
tượng
thuộc
sở
hữu
trí
tuệ…
Ngoài
ra,
việc
cụ
thể
hóa
đối
với
tài
sản
ở
nước
ngoài,
tiền,
tài
khoản
ngân
hàng,
tài
khoản
khác
ở
nước
ngoài
phù
hợp
với
pháp
luật
quốc
tế
cũng
phải
được
được
liệt
vào
danh
mục
tài
sản
phải
kiểm
soát.
2.
Hoàn
thiện
quy
định
pháp luật về
phạm vi kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
Hiện
tại,
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
hiện
hành
đang
phân
loại
đối
tượng
của
hoạt
động
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
đối
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
trong
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
thành
hai
nhóm
chủ
yếu:
Cán
bộ,
công
chức
và
những
người
thân
thích
của
họ.
Tuy
nhiên,
quy
định
như
vậy
là
chưa
thực
sự
đầy
đủ,
có
thể
tạo
ra
lỗ
hổng
trong
công
tác
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
trong
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước.
Nhằm
bảo
đảm
tính
bao
quát
của
pháp
luật
về
phòng,
chống
tham
nhũng
nói
chung
và
hiệu
quả
của
hoạt
động
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn,
cần
bổ
sung
thêm
các
đối
tượng
phải
tiến
hành
kê
khai
tài
sản,
thu
nhập.
Cụ
thể,
viên
chức,
người
được
làm
việc
trong
lĩnh
vực
công
trên
cơ
sở
hợp
đồng
hoặc
do
một
hình
thức
khác,
có
hưởng
lương
hoặc
không
hưởng
lương,
được
giao
thực
hiện
nhiệm
vụ,
công
vụ
nhất
định
và
có
quyền
hạn
nhất
định
trong
khi
thực
hiện
nhiệm
vụ,
công
vụ
đó
trong
các
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
ở
Trung
ương
và
địa
phương
cũng
là
những
đối
tượng
của
hoạt
động
kiểm
soát
thu
nhập,
tài
sản.
Bên
cạnh
đó,
căn
cứ
Điều
33
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
năm
2018,
người
thân
thích
được
hiểu
gồm
vợ
hoặc
chồng,
con
chưa
thành
niên
của
cán
bộ,
công
chức
có
nghĩa
vụ
kê
khai
tài
sản,
thu
nhập.
Tuy
nhiên
thực
tiễn
cho
thấy,
bên
cạnh
các
đối
tượng
trên
người
sống
chung
nhưng
không
đăng
kết
hôn;
con
chưa
thành
niên;
các
thành
viên
khác
trong
gia
đình
có
sống
chung;
công
chức,
cán
bộ
cấp
dưới
hay
những
người
có
quan
hệ
thân
tín
đều
là
những
người
có
năng
thực
hiện
hành
vi
bao
che,
tẩu
tán
tài
sản
có
được
từ
tham
nhũng
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
trong
các
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước.
Trên
thế
giới,
một
số
quốc
gia
như
Hoa
Kỳ[1],
Lithuana[2],
Ấn
Độ[3] áp
dụng
quy
định
theo
hướng
rộng,
yêu
cầu
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
của
tất
cả
các
thành
viên
gia
đình
nói
chung
(family
members)
thay
vì
quy
định
cụ
thể
đối
tượng
nào
thuộc
phạm
vi
của
hoạt
động
này.
Như
vậy,
các
đối
tượng
khác
như
anh,
chị,
em
rể;
anh,
chị,
em
vợ;
bố,
mẹ
vợ;
bố,
mẹ
chồng...
cũng
không
nằm
ngoài
phạm
vi
của
hoạt
động
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập.
Đặt
trong
bối
cảnh
Việt
Nam
là
một
quốc
gia
đề
cao
văn
hóa
gia
đình
đa
thế
hệ,
việc
xem
xét
mở
rộng
thêm
đối
tượng
của
hoạt
động
kê
khai
tài
sản,
thu
nhập
và
biến
động
về
tài
sản,
thu
nhập
như
quy
định
của
pháp
luật
hiện
hành
là
yêu
cầu
cần
thiết
để
có
thể
khắc
phục
lỗ
hổng
trong
quy
định
của
pháp
luật
về
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập.
Theo
chúng
tôi,
tùy
cấp
bậc,
vị
trí
công
tác,
cần
quy
định
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
có
nghĩa
vụ
kê
khai
tài
sản,
thu
nhập,
biến
động
về
tài
sản
của
cả
các
đối
tượng
là: Vợ/chồng,
người
sống
chung
như
vợ/chồng;
bố,
mẹ
đẻ;
bố,
mẹ
nuôi;
bố,
mẹ
vợ/bố,
mẹ
chồng;
anh,
chị,
em
ruột;
con
đẻ/con
nuôi trong
trường
hợp
sống
chung/sinh
hoạt
chung
(nhà
ở
chung;
thu,
chi
sinh
hoạt
phí
chung;
đối
tượng
cấp
dưỡng/phụ
thuộc
nhau...). 3.
Hoàn
thiện
quy
định
về
biện
pháp
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
3.1. Về
việc
công
khai
bản
kê
khai
tài
sản
Hiện
nay
việc
công
khai
bản
kê
khai
tại
cơ
quan,
đơn
vị
thường
mang
tính
hình
thức
dẫn
tới
thực
tế
không
kê
khai,
chậm
kê
khai.
Thời
gian
công
khai
bản
kê
khai
thường
ngắn,
địa
điểm
lại
“khó
tiếp
cận”
hay
gây
khó
khăn
cho
quá
trình
tiếp
cận
bản
kê
khai
(bản
kê
khai
được
treo
nơi
gắn
camera,
trong
tầm
kiểm
soát
nhìn/quan
sát
của
nhân
viên
văn
thư,
bảo
vệ...).
Vì
vậy,
cần
có
hướng
dẫn
cụ
thể
quy
định
về
thời
gian
công
khai
(kiến
nghị
thời
hạn
này
nên
là
30
ngày);
khi
công
khai
cần
có
thông
báo
trên
thông
tin
nội
bộ;
địa
điểm
công
khai
phải
được
bảo
đảm
an
toàn,
thuận
lợi
cho
quá
trình
tiếp
cận,
theo
dõi
thông
tin
kê
khai.
Việc
công
khai
cần
lập
biên
bản
và
có
sự
xác
nhận
của
đại
diện
công
đoàn
tại
đơn
vị,
có
như
vậy
mới
bảo
đảm
cơ
chế
kiểm
soát
từ
người
lao
động,
tránh
tính
hình
thức
như
hiện
nay.
Bên
cạnh
việc
kiểm
soát
tài
sản
minh
bạch
từ
phía
bên
ngoài, để
bảo
đảm
quyền
riêng
tư,
quyền
tài
sản
theo
pháp
luật
dân
sự
có
phải
quy
định
rõ
việc
khai
thác
dữ
liệu
về
tài
sản
cá
nhân
trong
khoảng
thời
gian
30
ngày.
Cụ
thể
nghiêm
cấm
hành
vi
sao,
chụp,
quay
thông
tin
niêm
yết
sử
dụng
cho
các
mục
đích
trái
quy
định
của
pháp
luật.
Trường
hợp
để
kiểm
soát
thông
tin
cần
đề
nghị
cung
cấp
bản
sao
của
các
bản
kê
khai
dẫn
chiếu
theo
khoản
3
Điều
7
của
Luật
Tiếp
cận
thông
tin
năm
2016.
Đây
cũng
là
một
trong
những
nội
dung
nhằm
mở
rộng
phạm
vi
tiếp
cận
thông
tin
kê
khai
đối
với
xã
hội[4].
Ngoài
ra,
cần
quy
định
nhất
quán
về
hình
thức
công
khai
thông
tin
và
khả
năng
tiếp
cận
thông
tin
đối
với
bản
kê
và
các
văn
bản
liên
quan
đến
bản
kê
khai.
Cụ
thể:
Kế
hoạch
xác
minh
tài
sản
của
đơn
vị
hàng
năm;
Bản
khai
về
tài
sản,
thu
nhập
của
cá
nhân;
Bản
giải
trình
nguồn
gốc
tăng
thêm;
Quyết
định
xác
minh
và
kết
quả
xác
minh
tài
sản
thu
nhập;
Quyết
định
kỷ
luật
cán
bộ
có
vi
phạm
về
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập…
được
công
khai
bằng
hình
thức
niêm
yết
tại
đơn
vị,
chỉ
một
số
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
được
phép
tiếp
cận
thông
tin
về
các
bản
kê
khai
và
việc
tiếp
cận
đó
phải
tuân
thủ
các
quy
định
của
pháp
luật
về
tiếp
cận
thông
tin
có
điều
kiện[5],
tránh
cách
quy
định
mâu
thuẫn
giữa
hình
thức
công
khai
nhưng
nội
dung
văn
bản
lại
“bí
mật”
về
điều
kiện
tiếp
nhận
như
dự
thảo
Nghị
định
hiện
nay[6].
3.2.
Về
lựa
chọn
đối
tượng
xác
minh
tài
sản
thu
nhập
Hiện
nay
theo
quy
định
tại
Điều
41
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
năm
2018,
việc
xác
minh
được
tiến
hành
dựa
trên
05
căn
cứ.
Theo
đó,
các
đối
tượng
phải
xác
minh
tài
sản
có
thể
chia
thành:
(i)
Các
đối
tượng
buộc
phải
xác
minh;
(ii)
Các
đối
tượng
được
xác
minh
ngẫu
nhiên.
Tuy
nhiên
với
các
đối
tượng
được
xác
minh
ngẫu
nhiên,
số
lượng
đối
tượng
được
lựa
chọn
cũng
như
cách
thức
lựa
chọn
ra
sao
vẫn
đang
được
các
cơ
quan
soạn
thảo
dự
thảo
về
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
của
người
có
chức
vụ
quyền
hạn
xây
dựng.
Theo
đó,
cơ
quan
chủ
trì
là
Thanh
tra
Chính
phủ
đề
xuất
sử
dụng
phương
pháp
bốc
thăm
hoặc
sử
dụng
phần
mềm
lựa
chọn
ngẫu
nhiên[7].
Để
tiếp
tục
nâng
cao
hiệu
quả
của
việc
lựa
chọn
đối
tượng
xác
minh,
bảo
đảm
tính
công
khai,
công
bằng
trong
hoạt
động
lựa
chọn
đối
tượng
xác
minh
tài
sản
thu
nhập,
cần
xem
xét
thực
hiện
một
số
biện
pháp
sau:
Một
là,
quy
định
số
lượng
các
đơn
vị/cơ
quan
(luân
phiên)
phải
xác
minh
tài
sản
thu
nhập
tối
thiểu
15%
cả
ở
Trung
ương
và
địa
phương
(bảo
đảm
tối
thiểu
03
đơn
vị
trở
lên
đối
với
bộ,
cơ
quan
ngang
bộ
và
chính
quyền
địa
phương);
Hai
là,
quy
định
số
lượng
cá
nhân
phải
xác
minh
tài
sản
thu
nhập
trong
mỗi
cơ
quan,
đơn
vị
tối
thiểu
02
cá
nhân,
trong
đó
bắt
buộc
01
cá
nhân
là
cấp
trưởng
hay
cấp
phó
của
đơn
vị;
Ba
là,
xác
định
một
số
đối
tượng
được
loại
trừ
như:
Người
đang
bị
điều
tra,
truy
tố,
xét
xử
(đối
tượng
sẽ
tuân
theo
quy
trình
riêng
về
tố
tụng),
người
mắc
bệnh
hiểm
nghèo
được
cơ
sở
y
tế
xác
nhận
đang
điều
trị,
người
đã
được
xác
minh
tài
sản,
thu
nhập
trong
03
năm
liền
kề
trước
đó
tính
đến
thời
điểm
phê
duyệt
kế
hoạch
xác
minh
tài
sản,
cá
nhân
đang
học
tập,
công
tác
tại
nước
ngoài
từ
12
tháng
trở
lên…
nhằm
loại
trừ
đối
tượng
ngay
từ
khi
thủ
trưởng
đơn
vị
xây
dựng
kế
hoạch
xác
minh
tài
sản
thu
nhập.
Điều
này
khắc
phục
tình
trạng
các
đơn
vị
cố
tình
đưa
một
số
đối
tượng
thuộc
diện
này
vào
để
bảo
đảm
đủ
tiêu
chuẩn
định
mức
số
lượng
nhưng
không
khả
thi
trong
quá
trình
xác
minh
như
số
liệu
Báo
cáo
của
Chính
phủ
về
công
tác
phòng
chống
tham
nhũng
giai
đoạn
từ
2015
-
2018
(phần
kiểm
soát
tài
sản).
4.
Hoàn
hiện
quy
định
về
các
biện
pháp
xử
lý
vi
phạm
quy
định
về
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
Thực
tế
cho
thấy
dù
Luật
phòng,
chống
tham
nhũng
hiện
hành
đã
quy
đinh
chi
tiết
trách
nhiệm
pháp
lý
đối
với
03
nhóm
đối
tượng:
(i)
Người
ứng
cử
đại
biểu
Quốc
hội,
đại
biểu
Hội
đồng
nhân
dân;
(ii)
Người
được
dự
kiến
bổ
nhiệm,
bổ
nhiệm
lại,
phê
chuẩn,
cử
giữ
chức
vụ;
(iii)
Người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
không
thuộc
hai
trường
hợp
nêu
trên.
Nhưng
vấn
đề
xử
lý
tài
sản,
thu
nhập
tăng
thêm
mà
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
giải
trình
không
hợp
lý
về
nguồn
gốc
vẫn
còn
bất
cập,
chưa
hoàn
thiện
về
khung
pháp
lý.
Ở
Việt
Nam,
việc
xử
lý
tài
sản,
thu
nhập
tăng
thêm
mà
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
giải
trình
không
hợp
lý
về
nguồn
gốc
được
thực
hiện
chưa
hiệu
quả.
Cách
quy
định
hiện
nay
về
vấn
đề
này
còn
chung
chung
và
thường
khó
chứng
minh
cũng
như
thu
hồi
triệt
để
đúng,
đủ
tài
sản
tài
sản,
thu
nhập
mà
không
chứng
minh
được
nguồn
gốc
ở
Việt
Nam.
Để
giải
quyết
được
vấn
đề
này,
các
quốc
gia
trên
thế
giới
đã
có
một
số
giải
pháp
cụ
thể:
-
Trường
hợp
Nhà
nước
không
chứng
minh
được
tài
sản,
thu
nhập
tăng
thêm
của
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
do
phạm
tội,
vi
phạm
pháp
luật
mà
có
thì
tạm
coi
đây
là
một
khoản
một
khoản
thu
nhập
phải
chịu
thuế,
người
kê
khai
phải
nộp
thuế
thu
nhập
cá
nhân.
Bên
cạnh
đó,
xem
xét
bổ
sung
thêm
một
loại
chế
tài
hình
sự
để
xử
lý
hành
vi
kê
khai
không
trung
thực
bên
cạnh
chế
tài
xử
lý
kỷ
luật
như
pháp
luật
hiện
hành;
thể
hiện
thái
độ
nghiêm
khắc
của
Nhà
nước
trong
việc
xử
lý
hành
vi
kê
khai,
giải
trình
không
hợp
lý
về
nguồn
gốc
tài
sản,
thu
nhập.
-
Một
số
quốc
gia
khác
lựa
chọn
giải
quyết
vấn
đề
tài
sản
thông
qua
thiết
chế
Tòa
án.
Theo
phương
án
này,
đối
với
tài
sản,
thu
nhập
tăng
thêm
mà
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
giải
trình
không
hợp
lý
về
nguồn
gốc,
cơ
quan
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
sẽ
chuyển
kết
luận
xác
minh
và
các
tài
liệu
có
liên
quan
để
yêu
cầu
Tòa
án
giải
quyết.
Từ
thực
tiễn
của
công
cuộc
đấu
tranh
phòng,
chống
tham
nhũng
ở
Việt
Nam,
nhất
là
những
vướng
mắc,
khó
khăn
khi
thực
hiện
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng,
giải
trình,
xác
minh
nguồn
gốc
của
tài
sản,
tác
giả
đề
xuất:
Thứ
nhất,
cần
nhanh
chóng
bổ
sung,
hoàn
thiện
các
quy
định
pháp
luật
hình
sự,
chế
tài
kỷ
luật
về
xử
lý
hành
vi
kê
khai
tài
sản,
thu
nhập
không
trung
thực,
giải
trình
nguồn
gốc
tài
sản,
thu
nhập
tăng
thêm
không
trung
thực
dưới
dạng
nghị
định,
thông
tư
hay
văn
bản
hướng
dẫn
thi
hành
bộ
luật,
luật
liên
quan.
Việc
quy
định
và
xử
lý
như
hiện
nay
chưa
thực
sự
thể
hiện
tính
nghiêm
minh
với
các
biện
pháp
pháp
lý
mạnh
mẽ
để
đấu
tranh
phòng,
chống
tội
phạm
đặc
biệt
là
việc
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng.
Đây
được
coi
là
một
trong
những
nguy
cơ
gây
xói
mòn
niềm
tin
của
nhân
dân
với
chính
quyền
và
xa
hơn
là
ảnh
hưởng
đến
sức
mạnh,
sự
tồn
vong
của
hệ
thống
chính
trị.
Thứ
hai,
không
áp
dụng
phương
pháp
hợp
thức
hóa
các
tài
sản,
thu
nhập
mà
Nhà
nước
không
chứng
minh
được
nguồn
gốc
bằng
cách
nộp
thuế.
Bởi
lẽ
đặt
trong
bối
cảnh
quốc
tế
hiện
nay,
nếu
quy
định
tài
sản
không
chứng
minh
được
nguồn
gốc
hợp
pháp
là
một
khoản
thu
nhập
phải
chịu
thuế
(người
kê
khai
phải
nộp
thuế
thu
nhập
cá
nhân)
sẽ
tiềm
ẩn
nguy
cơ
cho
các
hoạt
động
rửa
tiền
từ
nước
ngoài
đổ
vào
Việt
Nam
(dù
chúng
ta
đã
có
Luật
Phòng,
chống
rửa
tiền)
hay
ở
một
khía
cạnh
nào
đó
nảy
sinh
tâm
lý
“tận
thu”,
“vơ
vét”...
để
thông
qua
hoạt
động
nộp
thuế
thu
nhập
lại
hợp
pháp
hóa
được
tài
sản,
minh
bạch
được
nguồn
gốc
tài
sản
bất
minh
của
mình.
Thứ
ba,
trường
hợp
cá
nhân,
tổ
chức
không
được
cơ
quan
kiểm
soát
chấp
nhận
minh
chứng
được
nguồn
gốc
hợp
pháp
của
tài
sản,
không
đồng
tình
với
kết
luận
minh
chứng
từ
phía
cơ
quan
nhà
nước
có
thẩm
quyền
kiểm
soát
tài
sản;
cơ
quan
kiểm
soát
tài
sản
không
chứng
minh
tính
bất
hợp
pháp
của
nguồn
gốc
tài
sản
thì
vụ
việc
cần
phải
được
giải
quyết
thông
qua
hoạt
động
của
một
cơ
quan
tài
phán
độc
lập
là
Tòa
án.
Bằng
quyền
năng
và
sự
độc
lập
tuân
theo
pháp
luật,
Tòa
án
nhân
dân
là
chủ
thể
có
thẩm
quyền
xem
xét,
quyết
định
về
tính
hợp
lý
của
việc
giải
trình.
Tòa
án
ra
quyết
định:
Chấp
thuận
minh
chứng
của
chủ
thể
bị
kiểm
soát,
kê
khai
tài
sản;
bác
bỏ
minh
chứng,
yêu
cầu
thu
hồi
tài
sản,
thu
nhập
tăng
thêm
cho
Nhà
nước
nếu
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
giải
trình
không
hợp
lý
về
nguồn
gốc;
bác
bỏ
quyết
định/yêu
cầu
của
cơ
quan
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
trong
trường
hợp
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
đã
giải
trình
hợp
lý
về
nguồn
gốc
tài
sản,
thu
nhập
tăng
thêm…
Đây
đồng
thời
là
cơ
chế
kiểm
soát
quyền
lực
nhà
nước
trong
việc
thực
hiện
các
quyền
lập
pháp,
hành
pháp,
tư
pháp
mà
Điều
2
Hiến
pháp
năm
2013
đã
ghi
nhận.
Thứ
tư,
tăng
cường
quản
lý,
kiểm
soát
thuế
thu
nhập
cá
nhân
và
ứng
dụng
các
biện
pháp
thanh
toán
không
dùng
tiền
mặt
(kiểm
soát
thu
đầu
vào
và
chi).
Đây
có
thể
coi
là
biện
pháp
nền
tảng
nhất
nhằm
bảo
đảm
kiểm
soát
được
thu
nhập
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
kể
cả
trong
khu
vực
Nhà
nước
và
khu
vực
tư.
Cần
xem
xét
quy
định
mọi
khoản
thanh
toán
có
giá
trị
lớn
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
bắt
buộc
phải
được
thực
hiện
thông
qua
hệ
thống
ngân
hàng,
tổ
chức
tín
dụng
mà
không
sử
dụng
tiền
mặt,
từng
bước
tăng
cường
hạn
chế
việc
sử
dụng
tiền
mặt
trong
thanh
toán
của
nền
kinh
tế
là
biện
pháp
quan
trọng
trong
kiểm
soát
thu
nhập
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
nói
chung
và
nhằm
phòng,
chống
tội
phạm
nói
riêng,
trong
đó
có
tội
phạm
về
tham
nhũng.
Thư
năm, bên
cạnh
đó,
Điều
18
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
năm
2018
quy
định
cơ
quan
nhà
nước
trong
phạm
vi
thẩm
quyền
của
mình
có
trách
nhiệm:
(i)
Xây
dựng,
ban
hành
định
mức,
tiêu
chuẩn,
chế
độ;
(ii)
Công
khai
quy
định
về
định
mức,
tiêu
chuẩn,
chế
độ;
(iii)
Thực
hiện
và
công
khai
kết
quả
thực
hiện
quy
định
về
định
mức,
tiêu
chuẩn,
chế
độ.
Từ
quy
định
khái
quát
trong
Luật
này,
việc
xây
dựng,
ban
hành
định
mức,
tiêu
chuẩn,
chế
độ
và
công
khai
này
cần
quy
định
rõ
về
thời
gian
thực
hiện,
hình
thức
công
khai,
thống
nhất
định
mức
trong
các
ngành
trên
phạm
vi
chung
cả
nước,
tránh
tình
trạng
cục
bộ
của
từng
địa
phương
hay
có
sự
xung
đột
lợi
ích
giữa
các
ngành,
nghề.
Có
cơ
chế
xử
lý
đối
với
người
đứng
đầu
các
cơ
quan,
đơn
vị
làm
không
đúng
quy
định.
5.
Hoàn
thiện
thể
chế kiện
toàn
tổ
chức
bộ
máy
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
Kinh
nghiệm
quốc
tế
cho
thấy
do
việc
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
đang
tác
động
trực
tiếp
đến
địa
hạt
của
an
ninh
thông
tin,
quyền
bảo
đảm
bí
mật
đời
tư
của
cá
nhân
nên
đặt
ra
yêu
cầu
phải
được
quy
định
cụ
thể
trong
pháp
luật
quốc
gia.
Việc
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
do
nhiều
thiết
chế
khác
nhau
tiến
hành
bao
gồm
cả
cơ
quan
có
thẩm
quyền
của
nhà
nước,
các
thiết
chế
truyền
thông,
xã
hội
dân
sự,
và
các
công
dân[8] trên
cơ
sở
của
pháp
luật.
Việc
để
nhiều
thiết
chế
được
tham
gia
vào
công
tác
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
giúp
nâng
cao
hiệu
quả
của
công
tác
này
đồng
thời
giúp
việc
thực
thi
pháp
luật
về
phòng,
chống
tham
nhũng
trở
nên
mạnh
mẽ
hơn.
Ở
Việt
Nam,
Luật
Phòng
chống
tham
nhũng
2018
giao
Thanh
tra
Chính
phủ
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
của
người
giữ
chức
vụ
từ
Giám
đốc
Sở
và
tương
đương
trở
lên
công
tác
tại
Bộ,
cơ
quan
ngang
Bộ,
cơ
quan
thuộc
Chính
phủ,
chính
quyền
địa
phương,
đơn
vị
sự
nghiệp
công
lập,
cơ
quan,
tổ
chức
do
Thủ
tướng
Chính
phủ
quyết
định
thành
lập,
doanh
nghiệp
nhà
nước;
giao
Thanh
tra
tỉnh
(thành
phố
trực
thuộc
Trung
ương)
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
của
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
công
tác
tại
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị,
doanh
nghiệp
nhà
nước
thuộc
thẩm
quyền
quản
lý
của
chính
quyền
địa
phương;
giao
cho
các
cơ
quan
khác
và
tổ
chức
chính
trị,
tổ
chức
chính
trị
-
xã
hội,
tổ
chức
xã
hội chịu
trách
nhiệm
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
của
người
có
trách
nhiệm
kê
khai
công
tác
trong cơ
quan,
tổ
chức
mình.
Việc
quy
định
này
đã
tạo
ra
sự
chuyên
nghiệp
trong
việc
thực
hiện
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn,
tăng
tính
trách
nhiệm
và
hiệu
quả
của
công
tác
này.
Trong
trường
hợp
có
dấu
hiệu
tội
phạm,
theo
quy
định,
Cơ
quan
Thanh
tra
sẽ
hoàn
thiện
bổ
sung
hồ
sơ,
gửi
hồ
sơ
cho
Cơ
quan
Điều
tra
để
tiến
hành
khởi
tố
vụ
án
hình
sự.
Trong
thời
gian
tới,
cần phát
huy
vai
trò
của
cơ
quan
Thanh
tra
trong
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn,
cụ
thể:
Một là, sửa
đổi,
bổ
sung
lại
pháp
luật
về
tổ
chức
Cơ
quan
Thanh
tra,
ghi
nhận
nguyên
tắc
độc
lập
của
cơ
quan
này
trong
quá
trình
thực
hiện
nhiệm
vụ.
Cho
tới
nay,
“độc
lập”
vẫn
chưa
được
quy
định
là
một
nguyên
tắc
trong
Luật
Thanh
tra
năm
2010.
Hạn
chế
này
thể
hiện
ngay
chính
trong
hoạt
động
của
Cơ
quan
Thanh
tra
các
cấp,
phải
phụ
thuộc
vào
người
đứng
đầu
đơn
vị
hành
chính
và
cơ
chế
tài
chính
của
đơn
vị
hành
chính
chủ
quản
tương
ứng.
Hai là, cần
phải
triển
khai
là
xây
dựng
một
cơ
chế
tài
chính
độc
lập
tổ
chức
theo
chiều
dọc
của
ngành
thanh
tra.
Hàng
năm,
Quốc
hội
cấp
ngân
sách
cho
Chính
phủ,
Chính
phủ
dựa
trên
căn
cứ
thực
tiễn
hoạt
động
của
ngành
thanh
tra
sẽ
cấp
ngân
sách
cho
đầu
mối
là
Thanh
tra
Chính
phủ
để
cơ
quan
này
làm
đầu
mối
thực
hiện
việc
phân
bổ
ngân
sách
trong
ngành.
Trong
bối
cảnh
hoạt
động
kiểm
soát
tài
sản
nhắm
trực
tiếp
vào
đối
tượng
là
người
học
chức
vụ,
quyền
hạn
-
những
người
vừa
có
sức
mạnh
về
mặt
chính
trị,
vừa
có
tiềm
lực
việc
tạo
các
cơ
chế
hoạt
động
độc
lập
cho
Cơ
quan
Thanh
tra
lại
càng
phải
được
chú
trọng
trong
giai
đoạn
tới.
Ba
là,
xem
xét
đưa
Cơ
quan
Thanh
tra
trở
thành
một
trong
các
cơ
quan
được
giao
tiến
hành
một
số
hoạt
động
điều
tra,
trao
cho
cơ
quan
này
quyền
khởi
tố
khi
phát
hiện
dấu
hiệu
vi
phạm
hình
sự.
Đây
là
một
vấn
đề
có
căn
cứ
bởi
lẽ
để
tiến
hành
hoạt
động
của
mình,
theo
quy
định
của
pháp
luật,
Cơ
quan
Thanh
tra
cũng
phải
tiến
hành
một
số
hoạt
động
điều
tra,
thu
thập
chứng
cứ,
tài
liệu,
được
phép
áp
dụng
một
số
biện
pháp
nghiệp
vụ
luật
định.
Theo
Thông
tư
số
05/2014/TT-TTCP
của
Thanh
tra
Chính
phủ
quy
định
về
tổ
chức,
hoạt
động,
quan
hệ
công
tác
của
đoàn
thanh
tra
và
trình
tự,
thủ
tục
tiến
hành
một
cuộc
thanh
tra,
trong
quá
trình
chuẩn
bị
thanh
tra,
việc
thu
thập
thông
tin,
tài
liệu,
nắm
tình
hình
để
phục
vụ
cho
việc
ban
hành
quyết
định
thanh
tra
được
tiến
hành.
Thanh
tra
viên
có
trách
nhiệm
nghiên
cứu
tài
liệu,
thông
tin,
làm
rõ
các
vấn
đề
liên
quan
đến
thanh
tra,
trường
hợp
phát
hiện
có
dấu
hiệu
tội
phạm
sẽ
hoàn
thiện
hồ
sơ,
chuyển
hồ
sơ
cho
Cơ
quan
Điều
tra
(Điều
30).
Việc
chuyển
hồ
sơ
cho
Cơ
quan
Điều
tra
đang
làm
kéo
dài
thời
gian,
tạo
điều
kiện
cho
người,
cơ
quan
thực
hiện
hành
vi
có
dấu
hiệu
phạm
tội
nói
chung
và
tội
tham
nhũng
nói
riêng
có
thể
tiến
hành
tiêu
hủy
vật,
tiền,
tài
sản,
tài
liệu
liên
quan
đến
vụ
việc,
gây
khó
khăn
cho
quá
trình
điều
tra
sau
này.
Chính
vì
vậy,
việc
trao
thẩm
quyền
khởi
tố
cho
Cơ
quan
Thanh
tra
là
một
điều
cần
cân
nhắc
nghiên
cứu
để
tăng
cường
hiệu
quả
của
công
tác
bảo
vệ
pháp
luật
trong
quá
trình
đấu
tranh
với
tội
phạm
tham
nhũng
nói
riêng,
đối
với
vi
phạm
pháp
luật
trong
kiểm
soát,
tài
sản
thu
nhập
cả
từ
phía
chủ
thể
kiểm
soát
và
bị
kiểm
soát
nói
riêng.
Kết
luận
Tham
nhũng
gây
hậu
quả
xấu
về
nhiều
mặt,
làm
giảm
sút
lòng
tin
của
nhân
dân
vào
sự
lãnh
đạo
của
Đảng
và
sự
quản
lý
của
Nhà
nước,
tiềm
ẩn
nguy
cơ
gây
ra
các
xung
đột
về
lợi
ích,
các
phản
kháng
về
xã
hội,
làm
tăng
thêm
khoảng
cách
giàu
nghèo
và
đang
trở
thành
vật
cản
lớn
đối
với
sự
thành
công
của
công
cuộc
đổi
mới
mà
Đảng
và
Nhà
nước
ta
đã
và
đang
thực
hiện
từ
nhiều
năm
nay.
Hoàn
thiện
thể
kiểm
soát
thu
nhập,
tài
sản
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
được
xác
định
là
một
trong
những
công
cụ
quan
trọng,
là
một
trong
những
giải
pháp
phòng,
chống
tham
nhũng
hiệu
quả,
đã
được
pháp
luật
quốc
tế
và
pháp
luật
của
nhiều
quốc
gia
ghi
nhận./.
TS.
Nguyễn
Thúy
Hoa
Học
viện
Chính
trị
khu
vực
I
[1] Xem:
The
United
States
, The
Ethics
in
Government
Act
of
1978
(“Ethics
Act”),
Article
105.3.B.
[2] Xem:
Lithuana,
Property
and
Income
Declaration
Law,
Article
2.1,
2.2.
[3] Xem:
India,
The
1964
Central
Civil
Service
Conduct
Rules,
Rule
18.
[4] Thông
tin
công
dân
được
tiếp
cận
có
điều
kiện
[5] Quy
định
thống
nhất
với
nội
dung
của
Luật
tiếp
cận
thông
tin,
Điều
7,
khoản
3
[6] Xung
đột
nội
dung
công
khai
và
phải
tuân
thủ
các
quy
định
của
pháp
luật
về
bảo
vệ
bí
mật
nhà
nước
giữa
các
điều
14,
25,
29
trong
dự
thảo
Nghị
định
về
kiểm
soát
tài
sản
[8] Xem:
Maíra
Martini,
U4
Expert
Answer,
Asset
declaration
regimes
in
selected
Asian
countries,
Anti-Corruption
Resource
Center,
No
381,
2013,
p.7.
Nguồn:
Tạp
chí
dân
chủ
pháp
luật
Từ
khóa:
gần
đây,
tệ
nạn,
tham
nhũng,
nghiêm
trọng,
báo
động,
trung
ương,
chương
trình,
dự
án,
cơ
sở,
tiếp
xúc,
giải
quyết,
vấn
đề,
hiện
tượng,
nhũng
nhiễu
Những
tin
mới
hơn
Những
tin
cũ
hơn
Cơ
quan
chủ
quản:
THANH
TRA
THÀNH
PHỐ
TAM
KỲ-
TỈNH
QUẢNG
NAM
Địa
chỉ
cơ
quan:
70
Hùng
Vương -Thành
phố
Tam
Kỳ-
Tỉnh
Quảng
Nam
Điện
thoại: 0235.3810268
Chịu
trách
nhiệm
nội
dung:
Thanh
phố
Tam
Kỳ.
Ghi
rõ
nguồn
'http://thanhtratamky.gov.vn'
khi
bạn
phát
hành
lại
thông
tin
từ
Website
này.