Tóm
tắt:Hướng
đến
đảm
bảo
an
toàn
pháp
lý
trong
giao
dịch
bất
động
sản
mà
pháp
luật
buộc
phải
công
chứng,
chứng
thực,
tác
giả
của
bài
viết
này
nêu
thực
tiễn
xét
xử
các
vụ
án
dân
sự
liên
quan
đến
giao
dịch
bất
động
sản
mang
tính
phổ
biến
như:
Giao
dịch
dân
sự
liên
quan
đến
bất
động
sản
vô
hiệu
do
giả
tạo
hoặc
giả
mạo,
giao
dịch
liên
quan
đến
tài
sản
chung
là
bất
động
sản
của
vợ
chồng
do
một
bên
vợ
chồng
thực
hiện
và
trách
nhiệm
bồi
thường
thiệt
hại
của
các
đương
sự
khi
văn
bản
công
chứng
bất
động
sản
vô
hiệu.
Trong
đó,
tác
giả
tập
trung
phân
tích
quy
định
của
pháp
luật
hiện
hành
về
mỗi
nội
dung
cần
đề
cập,
minh
họa
vụ
án
cụ
thể
về
quá
trình
giải
quyết
tranh
chấp
của
các
cấp
tòa
án;
chỉ
ra
những
tồn
tại,
bất
cập
và
đưa
ra
quan
điểm
nhằm
góp
phần
để
mọi
giao
dịch
liên
quan
đến
bất
động
sản
tại
Việt
Nam
minh
bạch
và
an
toàn.
1
Giao
dịch
dân
sự
liên
quan
đến
bất
động
sản
vô
hiệu
do
giả
tạo
Giao
dịch
dân
sự
(GDDS)
giả
tạo
là
giao
dịch
được
xác
lập
nhằm
che
dấu
giao
dịch
có
thật
khác.
Trong
giao
dịch
giả
tạo
các
chủ
thể
không
có
ý
định
xác
lập
quyền
và
nghĩa
vụ
với
nhau.
Quy
định
của
Bộ
luật
Dân
sự
(BLDS)
năm
2005
và
BLDS
năm
2015
về
GDDS
vô
hiệu
do
giả
tạo
không
có
sự
khác
biệt
đáng
kể
về
việc
nhận
diện
và
hướng
giải
quyết
[1].
Thực
chất,
khi
tham
gia
GDDS
bình
thường
các
bên
cùng
thể
hiện
ý
chí
thật
sự,
còn
GDDS
giả
tạo
chỉ
nhằm
che
đậy
ý
chí
không
thật
của
các
chủ
thể.
Hay
nói
cách
khác,
GDDS
giả
tạo
là
giao
dịch
được
xác
lập
không
thật,
nhằm
che
giấu
ý
chí
thật
của
các
chủ
thể.
Do
đó,
GDDS
giả
tạo
là
giao
dịch
mà
các
chủ
thể
không
có
ý
định
thiết
lập
quyền
và
nghĩa
vụ
với
nhau,
nội
dung
của
giao
dịch
giả
tạo
cũng
không
thể
hiện
ý
chí
đích
thực
của
các
bên,
mà
các
bên
tạo
ra
giao
dịch
giả
tạo
chỉ
nhằm
che
đậy
một
giao
dịch
khác.
Có
thể
nói:
“
Giao
dịch
giả
tạo
là
giao
dịch
mà
ý
chí
được
biểu
đạt
ra
ngoài
khác
với
ý
chí
đích
thực
và
có
tồn
tại
sự
khác
biệt
giữa
kết
quả
thực
tế
đã
thực
hiện
giao
dịch
so
với
mục
đích
của
GDDS
được
xác
lập”
[2].
Theo
quy
định
của
BLDS,
GDDS
vô
hiệu
do
giả
tạo
có
hai
loại:
“
Giao
dịch
được
xác
lập nhằm
che
giấu
một
GDDS
khác.
Các
bên
thỏa
thuận
ký
hai
hợp
đồng
về
một
đối
tượng;
tuy
nhiên,
một
hợp
đồng
có
giá
trị
pháp
lý,
còn
hợp
đồng
thứ
hai
không
phát
sinh
quyền
và
nghĩa
vụ
của
các
bên.
GDDS
nhằm
trốn
tránh
nghĩa
vụ
với
người
thứ
ba.
Nhằm
trốn
tránh
nghĩa
vụ
trả
nợ
hoặc
trốn
tránh
thi
hành
án
dân
sự,
bên
có
nghĩa
vụ
định
đoạt
tài
sản
cho
người
khác
để
không
còn
tài
sản
trả
nợ
hoặc
thi
hành
án”
[3]. Như
vậy,
GDDS
giả
tạo
chỉ
mang
tính
hình
thức,
mục
đích
xác
lập
giao
dịch
để
nhằm
che
giấu
một
giao
dịch
khác
hoặc
trốn
tránh
nghĩa
vụ
với
người
thứ
ba,
không
thể
hiện
đúng
ý
chí
đích
thực
của
các
bên.
Mặc
dù
vậy,
“
Không
phải
bất
cứ
một
sự
thể
hiện
ý
chí
giả
tạo
nào
cũng
đều
là
giao
dịch
giả
tạo
mà
chỉ
những
giao
dịch
các
bên
chủ
thể
có
sự
thông
đồng
với
nhau
từ
trước
khi
tham
gia
giao
dịch
mới
là
giao
dịch
giả
tạo,
vì
vậy
để
đảm
bảo
giao
dịch
tuân
thủ
đúng
quy
định
pháp
luật
và
bảo
vệ
quyền
lợi
của
người
thứ
ba
ngay
tình
thì
giao
dịch
giả
tạo
bị
vô
hiệu,
còn
giao
dịch
bị
che
giấu
vẫn
có
hiệu
lực”
[4].
Vấn
đề
đặt
ra
là
khi
hai
bên
xác
lập
GDDS
giả
tạo
mà
hợp
đồng
có
sự
chứng
nhận
của
công
chứng
viên
(CCV)
thì
các
bên
phải
chịu
trách
nhiệm
pháp
lý
như
thế
nào?
Chúng
tôi
xin
nêu
ví
dụ
như
sau:
“Hợp
đồng
chuyển
nhượng
quyền
sử
dụng
đất
(QSDĐ)”
ngày
16/12/2014
có
nội
dung:
Ông
Hồ
Văn
H
chuyển
nhượng
cho
ông
Nguyễn
Thành
N,
bà
Lê
Thị
Kim
L
diện
tích
1.207,6m
2 đất
thuộc
thửa
96,
tờ
bản
đồ
số
12,
xã
Long
Thới,
huyện
Nhà
Bè,
Thành
phố
Hồ
Chí
Minh
với
giá
200.000.000
đồng
có
công
chứng
của
Văn
phòng
Công
chứng
Q
,
Thành
phố
Hồ
Chí
Minh;
việc
giao
và
nhận
số
tiền
nêu
trên
do
hai
bên
tự
thực
hiện,
không
có
sự
chứng
kiến
của
CCV.
Ông
H
xác
định
thật
sự
giá
chuyển
nhượng
hai
bên
thỏa
thuận
là
3.200.000.000
đồng,
nhưng
ghi
trong
Hợp
đồng
là
200.000.000
đồng
để
được
chịu
thuế
thấp.
Ông
N,
bà
L
cho
rằng,
giá
chuyển
nhượng
thửa
đất
nêu
trên
là
200.000.000
đồng
đúng
như
Hợp
đồng
đã
ký
kết;
tại
Đơn
đề
nghị
xem
xét
bản
án
của
Tòa
án
theo
thủ
tục
giám
đốc
thẩm
ngày
03/5/
2017,
của
ông
N,
bà
L
tuy
không
nói
rõ
giá
tiền
chuyển
nhượng
đất
là
bao
nhiêu,
nhưng
lại
cho
rằng:
“đã
giao
đầy
đủ
số
tiền
chuyển
nhượng
cho
nguyên
đơn”;
phương
thức
giao
03
lần,
với
tổng
số
tiền
là
2.200.000.000
đồng.
Như
vậy,
tại
Đơn
đề
nghị
xem
xét
theo
thủ
tục
giám
đốc
thẩm,
ông
N
đã
thừa
nhận
giá
chuyển
nhượng
thửa
đất
nêu
trên
ghi
trong
Hợp
đồng
200.000.000
đồng
là
giả
tạo;
giữa
ông
H
với
ông
N
và
bà
L
khai
không
thống
nhất
về
giá
chuyển
nhượng.
Tại
Biên
bản
định
giá
của
Hội
đồng
định
giá
ngày
19/8/2015
xác
định
giá
thị
trường
của
phần
đất
tranh
chấp
là
2.500.000
đồng/m
2,
tổng
giá
trị
khu
đất
là
1.207,6m
2 x
2.500.000
đồng
=
3.019.000.000
đồng.
Như
vậy,
giá
chuyển
nhượng
ghi
trong
Hợp
đồng
là
200.000.000
đồng
cũng
không
phù
hợp
với
giá
thực
tế
trên
thị
trường
[5].
Từ
những
tình
tiết
nêu
trên,
có
cơ
sở
xác
định
giá
ghi
trong
Hợp
đồng
chuyển
nhượng
QSDĐ
được
công
chứng
ngày
16/12/2014
là
giả
tạo
nhằm
che
giấu
Hợp
đồng
giá
cao
hơn
(để
“chịu
thuế
thấp”).
Trong
vụ
án
nêu
trên,
việc
giả
tạo
chỉ
một
phần
của
hợp
đồng,
chỉ
điều
khoản
về
giá.
Rất
có
khả
năng
hai
bên
tranh
chấp
về
vấn
đề
khác,
ví
dụ
như
số
tiền
thanh
toán
và
thời
hạn
thanh
toán,
chất
lượng
nhà,
giá
bất
động
sản
(BĐS)
tăng
vào
thời
điểm
thanh
toán…
nên
việc
một
bên
khai
ra
giá
thực
tế
chuyển
nhượng
nhằm
đạt
mục
đích
tuyên
bố
văn
bản
công
chứng
vô
hiệu
để
đạt
được
những
mục
đích
khác.
Rõ
ràng
hai
bên
biết
việc
làm
của
mình
là
vi
phạm
vào
thời
điểm
xác
lập
hợp
đồng,
nên
khi
có
tranh
chấp
thì
đây
cũng
là
một
căn
cứ
mà
hai
bên
đều
nhắm
đến
để
đạt
mục
đích.
Tuy
nhiên,
việc
giả
tạo
trong
tình
huống
nêu
trên
làm
giảm
số
thuế
phải
nộp
cho
Nhà
nước,
việc
này
đã
được
hai
bên
thỏa
thuận
thống
nhất
trước
thời
điểm
công
chứng.
Điều
404 BLDS
năm
2015
quy
định:
“Khi
hợp
đồng
có
điều
khoản
không
rõ
ràng
thì
việc
giải
thích
điều
khoản
đó
không
chỉ
dựa
vào
ngôn
từ
của
hợp
đồng
mà
còn
phải
căn
cứ
vào
ý
chí
của
các
bên
được
thể
hiện
trong
toàn
bộ
quá
trình
trước,
tại
thời
điểm
xác
lập,
thực
hiện
hợp
đồng”.
Do
đó,
hai
bên
tham
gia
giao
dịch
phải
chịu
trách
nhiệm
trong
trường
hợp
Cơ
quan
thuế
truy
thu
thuế
liên
quan
đến
giao
dịch
này.
Việc
ban
hành
chính
sách
thuế,
tiến
hành
thu
thuế
thuộc
cơ
quan
nhà
nước
có
thẩm
quyền.
Do
đó,
Điều
114
Luật
Đất
đai
năm
2013
quy
định
về
Bảng
giá
đất
và
giá
đất
cụ
thể;Bảng
giá
đất
được
xây
dựng
định
kỳ
05
năm
một
lần
và
công
bố
công
khai
vào
ngày
01
tháng
01
của
năm
đầu
kỳ.
Theo
đó,
Điều
17
Thông
tư
số
92/2015/TT-BTC
quy
định
căn
cứ
tính
thuế
đối
với
thu
nhập
từ
chuyển
nhượng
BĐS
gồm
“Trường
hợp
trên
hợp
đồng
chuyển
nhượng
không
ghi
giá
hoặc
giá
trên
hợp
đồng
chuyển
nhượng
thấp
hơn
giá
đất
do
Ủy
ban
nhân
dân
(UBND)
cấp
tỉnh
quy
định
tại
thời
điểm
chuyển
nhượng
thì
giá
chuyển
nhượng
được
xác
định
theo
bảng
giá
đất
do
UBND
cấp
tỉnh
quy
định
tại
thời
điểm
chuyển
nhượng”.
Có
tác
giả
cho
rằng:“Vì
lợi
ích
của
cả
người
mua
và
người
bán,
nên
họ
thường
thoả
thuận
ghi
giá
trên
hợp
đồng
chuyển
nhượng
thấp
hơn
thực
tế.
Trong
trường
hợp
này
chỉ
Nhà
nước
chịu
thất
thu
thuế”.
Để
chống
việc
lách
thuế
qua
việc
ghi
thấp
giá
trên
hợp
đồng
chuyển
nhượng
thì
UBND
các
tỉnh,
thành
phố
cần
xây
dựng
và
ban
hành
giá
nhà,
đất
tính
thuế
và
điều
chỉnh
hàng
năm
sao
cho
phù
hợp
và
sát
giá
thực
tế
chuyển
nhượng
trên
thị
trường
tự
do
[6].
Điều
155
Dự
thảo
Luật
Đất
đai
(
sửa
đổi)
[7]quy
định
về
Bảng
giá
đất:
“UBND
cấp
tỉnh
quyết
định
ban
hành
bảng
giá
đất
định
kỳ
hàng
năm
sau
khi
được
Hội
đồng
nhân
dân
cùng
cấp
thông
qua.
Bảng
giá
đất
được
công
bố
công
khai
và
áp
dụng
từ
ngày
01
tháng
01
hàng
năm.
Bảng
giá
đất
được
áp
dụng
cho
các
trường
hợp
tính
thuế
thu
nhập
từ
chuyển
QSDĐ
đối
với
hộ
gia
đình,
cá
nhân”.
Quy
định
của
Dự
thảo
như
trên
có
khả
năng
giúp
Nhà
nước
tránh
thất
thu
thuế,
nhưng
trong
trường
hợp
có
tranh
chấp
liên
quan
đến
tuyên
bố
văn
bản
công
chứng
vô
hiệu
do
giả
tạo
nhằm
mục
đích
trốn
thuế
thì
vẫn
phải
do
các
bên
tham
gia
giao
dịch
chịu
trách
nhiệm.
2.
Văn
bản
công
chứng
liên
quan
đến
bất
động
sản
vô
hiệu
do
giả
mạo
Thủ
tục
công
chứng
trong
GDDS
là
quy
định
nhằm
bảo
vệ
quyền
lợi
của
các
bên
tham
gia
giao
dịch
và
tạo
ra
một
môi
trường
pháp
lý
an
toàn
đối
với
các
bên.
Tuy
nhiên,
thực
tiễn
cho
thấy,
nhiều
hợp
đồng
được
công
chứng
bị
Tòa
án
tuyên
vô
hiệu
do
có
sự
giả
mạo
chủ
sở
hữu
hay
sử
dụng
văn
bản,
giấy
tờ
giả
mạo…Các
hành
vi
bị
nghiêm
cấm
trong
hoạt
động
công
chứng
đối
với cá
nhân,
tổ
chức
đượcLuật
Công
chứng
năm
2014 ghi
nhận
như
nghiêm
cấm
các
hành
vi
giả
mạo
người
yêu
cầu
công
chứng;
người
yêu
cầu
công
chứng
sử
dụng
văn
bản,
giấy
tờ
giả
mạo
để
yêu
cầu
công
chứng.
Có
những
trường
hợp
CCV
đã
thực
hiện
đúng
thủ
tục
công
chứng
theo
quy
định
của
pháp
luật
nhưng
vẫn
còn
tồn
tại
văn
bản
công
chứng
do
người
giả
mạo
ký.
Như
vậy,
hợp
đồng
hoặc
giao
dịch
dân
sự
do
người
giả
mạo
ký
sẽ
không
có
giá
trị
pháp
lý
và
vô
hiệu
do
vi
phạm
điều
cấm
của
Luật
Công
chứng.
Đồng
thời,
khi
phát
hiện
văn
bản
công
chứng
do
người
giả
mạo
ký
và
có
căn
cứ
để
xác
minh
việc
giả
mạo
đó,
CCV,
người
yêu
cầu
công
chứng,
người
làm
chứng,
người
phiên
dịch,
người
có
quyền
lợi,
nghĩa
vụ
liên
quan,
cơ
quan
nhà
nước
có
thẩm
quyền
có
quyền
đề
nghị
Tòa
án tuyên
bố
văn
bản
công
chứng
vô
hiệu
và
khi
hợp
đồng
vô
hiệu
thì
bên
có
lỗi
gây
thiệt
hại
phải
bồi
thường
thiệt
hại[8].
Vấn
đề
đặt
ra
là
xác
định
trách
nhiệm
bồi
thường
như
thế
nào?
Tác
giả
nêu
ví
dụ
như
sau:
Ông
Nguyễn
Văn
Th
(sinh
ngày
28/5/1951,
đã
chết
ngày
06/6/2009)
có
vợ
là
bà
Trương
Thị
N
được
UBND
huyện
Thanh
Trì,
thành
phố
Hà
Nội
cấp
Giấy
chứng
nhận
QSDĐ
đối
với
phần
đất
diện
tích
236m2 tại
Lĩnh
Nam,
quận
Hoàng
Mai,
thành
phố
Hà
Nội.
Khoảng
năm
2005,
gia
đình
ông
Th
bị
mất
Giấy
chứng
nhận
QSDĐ
nêu
trên.
Theo
ông
Nguyễn
Toàn
T
khai
thì
ông
T
nhặt
được
Giấy
chứng
nhận
QSDĐ
mang
tên
ông
Th
và
ông
T
cho
bà
Nguyễn
Thị
Nh
(ông
T
là
cháu
rể
của
bà
Nh).
Bà
Nh
trình
bày
do
bà
có
nhu
cầu
vay
tiền,
nên
ông
T
đã
bảo
bà
photo
sổ
hộ
khẩu
của
gia
đình
bà
cùng
với
chứng
minh
thư
của
bà
và
ông
Trương
Văn
T
(chồng
của
bà)
để
đưa
cho
ông
T
liên
hệ
vay
tiền
giúp;
đầu
tháng
4/2009,
ông
T
gọi
bà
đến
Văn
phòng
Công
chứng
H
để
ký
Hợp
đồng
ủy
quyền
làm
thủ
tục
vay
tiền.
Ngày
03/4/2009,
bà
Nh
đến
Văn
phòng
Công
chứng
H
ký
Hợp
đồng
ủy
quyền
tại
mục
bên
ủy
quyền
là
bà
Nh
có
chồng
là
ông
Nguyễn
Văn
Th,
bà
Nh
có
thắc
mắc
nhưng
ông
T
bảo
bà
cứ
ký
để
vay
tiền;
ông
T
có
nhờ
một
người
mạo
danh
là
Nguyễn
Văn
Th
-
chồng
của
bà
Nh
ký
hợp
đồng
ủy
quyền.
Bà
Nh
đã
đọc
và
ký
Hợp
đồng
ủy
quyền.
Như
vậy,
bà
Nh
biết
vợ
chồng
bà
Nh
không
phải
là
chủ
sử
dụng
hợp
pháp
thửa
đất
nêu
trên
và
chồng
bà
Nh
là
ông
Trương
Văn
T
(sinh
năm
1970),
chứ
không
phải
Nguyễn
Văn
Th,
nhưng
ngày
03/4/2009,
bà
Nh
vẫn
đến
Văn
phòng
Công
chứng
H
cùng
với
một
người
giả
mạo
là
ông
Th
(chồng
bà
Nh)
để
ký
Hợp
đồng
ủy
quyền
có
nội
dung
ủy
quyền
cho
bà
M
được
quyền
thế
chấp,
chuyển
nhượng
thửa
đất
nêu
trên.
Hành
vi
của
bà
Nh
có
dấu
hiệu
của
tội
phạm
hình
sự.
Xuất
phát
từ
hợp
đồng
ủy
quyền
nêu
trên,
ngày
08/12/2009,
tại
Văn
phòng
Công
chứng
V,
bà
M
ký
Hợp
đồng
chuyển
nhượng
quyền
sử
dụng
236m2 đất
tại
Lĩnh
Nam
cho
ông
T
với
giá
400.000.000
đồng.
Bà
M
chưa
giao
nhà
đất
trên
thực
địa
cho
ông
T.
Khi
ông
T
tiến
hành
thủ
tục
sang
tên
Giấy
chứng
nhận
QSDĐ
thì
mới
biết
chủ
đất
là
ông
Th
(sinh
năm
1951),
bà
Nh
chứ
không
phải
ông
Th
(sinh
năm
1970),
bà
Nh.
Như
vậy,
khi
nhận
chuyển
nhượng
đất,
ông
T
không
kiểm
tra
thực
địa,
nên
không
biết
đất
không
phải
của
ông
Th
(sinh
năm
1970),
bà
Nh
và
cũng
không
biết
Hợp
đồng
ủy
quyền
là
giả
mạo,
nên
ông
T
cũng
là
người
có
lỗi.
Sau
khi
nhận
chuyển
nhượng
đất,
ông
T
mới
biết
đất
chuyển
nhượng
của
ông
Th
(sinh
năm
1951),
bà
Nh,
nên
các
bên
tranh
chấp
và
không
thể
nhận
được
đất
đã
nhận
chuyển
nhượng,
dẫn
đến
thiệt
hại.
Tòa
cấp
giám
đốc
thẩm
nhận
định:
Các
hành
vi
dẫn
đến
thiệt
hại
của
ông
T
có
dấu
hiệu
của
tội
phạm
hình
sự.
Trong
trường
hợp
này,
những
người
có
trách
nhiệm
bồi
thường
thiệt
hại
(không
chỉ
riêng
Phòng
Công
chứng
H)
phải
liên
đới
bồi
thường
cho
ông
T[9].
Thông
qua
thực
tiễn
xét
xử
cho
thấy,
Toà
án
đã
buộc
tổ
chức
hành
nghề
công
chứng
và
người
yêu
cầu
công
chứng
cùng
chịu
trách
nhiêm
liên
đới
bồi
thường
thiệt
hại,
vì
“tổ
chức
công
chứng
mà
cụ
thể
là
CCV
chưa
làm
hết
trách
nhiệm
của
mình,
đã
dẫn
đến
việc
không
phát
hiện
được
yếu
tố
giả
mạo.
Theo
quy
định
của
pháp
luật,
công
chứng
là
việc
CCV
của
một
tổ
chức
hành
nghề
công
chứng
chứng
nhận tính xác
thực,
hợp
pháp
của
hợp
đồng,
GDDS
khác
bằng
văn
bản.
Việc
CCV
không
phát
hiện
được
giấy
tờ
giả
mạo
là
chưa
làm
hết
trách
nhiệm
của
mình
dẫn
đến
hợp
đồng
bị
tuyên
vô
hiệu,
do
đó,
CCV
có
lỗi”[10].
Từ
nhận
định
trên,
chúng
ta
có
thể
chia
ra
hai
trường
hợp: thứ
nhất,
người
thực
hiện
hành
vi
giả
mạo
là
người
yêu
cầu
công
chứng,
hành
vi
giả
mạo
được
thực
hiện
trước
như
cắt
ghép
làm
giả
giấy
tờ
tùy
thân
hay
giấy
chứng
nhận
về
tài
sản.
Người
mua
trong
nhiều
trường
hợp
biết
việc
giả
mạo
này,
do
đó
không
cần
xem
tình
trạng
tài
sản
nhận
chuyển
nhượng,
nhằm
hợp
pháp
hóa
và
cùng
với
người
bán,
chuyển
nhượng
chiếm
đoạt
tài
sản
này.
Hành
vi
giả
mạo
rất
tinh
vi,
CCV
không
thể
biết
được,
CCV
không
phải
là
người
chiếm
đoạt
tài
sản.
Hiện
nay,
có
những
vụ
án
người
bán
giả
mạo
được
thuê
ký
hợp
đồng,
còn
người
mua,
nhận
chuyển
nhượng
đã
bỏ
trốn.
Về
nội
dung
trên,
đại
diện
Tòa
án
nhân
dân
tối
cao
có
ý
kiến:
Bị
cáo
thực
hiện
hành
vi
gian
dối
để
chiếm
đoạt
tiền
của
bị
hại.
Về
nguyên
tắc,
ai
chiếm
đoạt
thì
người
đó
phải
bồi
thường.
Quá
trình
điều
tra,
truy
tố,
xét
xử
không
xem
xét,
xử
lý
hành
vi
vi
phạm
của
CCV,
không
chứng
minh
CCV
đồng
phạm
với
bị
cáo
cũng
như
sử
dụng
số
tiền
bị
cáo
chiếm
đoạt.
Văn
phòng
công
chứng
thực
hiện
công
chứng
theo
quy
định
của
pháp
luật,
không
thể
biết
được
thủ
đoạn
gian
dối
của
bị
cáo
để
chiếm
đoạt
tiền
của
bị
hại.
Do
đó,
không
thể
buộc
trách
nhiệm
liên
đới
của
văn
phòng
công
chứng
bồi
thường
cho
bị
hại
mà
chỉ
buộc
bị
cáo
phải
có
trách
nhiệm
bồi
thường
(hoàn
trả)
số
tiền
đã
chiếm
đoạt
của
bị
hại
[11].
Hiện
nay,
CCV
khi
thực
hiện
thủ
tục
công
chứng
chỉ
căn
cứ
vào
giấy
tờ
tùy
thân
và
Giấy
chứng
nhận
do
người
yêu
cầu
công
chứng
cung
cấp
mà
không
có
nguồn
nào
từ
Nhà
nước
để
đối
sánh,
nhằm
phát
hiện,
giảm
thiểu
tình
trạng
giả
mạo.
Để
hạn
chế
tình
trạng
giả
mạo
nêu
trên
nhằm
đảm
bảo
an
toàn
pháp
lý
cho
các
bên
tham
gia
giao
dịch
về
BĐS,
một
số
quốc
gia
xem
thủ
tục
xác
minh
nhân
thân
và
tài
sản
là
một
thủ
tục
bắt
buộc
trong
thủ
tục
công
chứng
bằng
cách
các
cơ
quan
quản
lý
nhà
nước
có
thẩm
quyền
chia
sẻ,
kết
nối
các
cơ
sở
dữ
liệu
về
dân
cư,
cơ
sở
dữ
liệu
hệ
thống
thông
tin
về
đất
đai,
BĐS,
cơ
sở
về
tranh
chấp
hay
tài
sản
bị
hạn
chế
hoặc
đủ
điều
kiện
chuyển
quyền
[12] …
nhằm
ngăn
chặn
tình
trạng
giả
mạo
ngay
từ
ban
đầu.
Hiện
nay,
Sở
Tư
pháp
Thành
phố
Hồ
Chí
Minh
đã
phối
hợp
với
Sở
Thông
tin
và
Truyền
thông,
Sở
Tài
nguyên
và
Môi
trường
ban
hành
Kế
hoạch
liên
tịch
số
5104/KHLT-STP-STTTT-STNMT
ngày
29/10/2020
về
kết
nối,
chia
sẻ
cơ
sở
dữ
liệu
công
chứng
và
cơ
sở
dữ
liệu
địa
chính
tại
Thành
phố
Hồ
Chí
Minh
góp
phần
nâng
cao
hiệu
lực,
hiệu
quả
quản
lý
nhà
nước
về
công
chứng và
đất
đai,
cũng
như
chất
lượng
hoạt
động
công
chứng
và
đăng
ký
nhà,
đất
tại
Thành
phố.
Đồng
thời,
kế
hoạch
liên
tịch
này
còn
góp
phần
phòng,
chống
tội
phạm
và
vi
phạm
pháp
luật
về
đất
đai,
kinh
doanh
BĐS
[13].
Thứ
hai,
trong
trường
hợp
CCV
thực
hiện
thủ
tục
công
chứng
chưa
đúng
theo
quy
định
của
pháp
luật
thì
tùy
theo
tính
chất,
CCV
sẽ
chịu
trách
nhiệm
hành
chính,
dân
sự,
hình
sự,
trách
nhiệm
nghề
nghiệp
được
quy
định
tại
Quy
tắc
đạo
đức
hành
nghề
công
chứng
[14].
Vì
vậy,
cần
nâng
cao
vai
trò
quản
lý
nhà
nước
về
hoạt
động
công
chứng
và
tổ
chức
nghề
nghiệp
của
CCV
trong
quá
trình
hành
nghề
của
CCV
nhằm
nâng
cao
chất
lượng
dịch
vụ
công
về
công
chứng.
3.
Giao
dịch
liên
quan
đến
tài
sản
chung
là
bất
động
sản
của
vợ
chồng
do
một
bên
vợ
chồng
thực
hiện
Theo
quy
định
của
pháp
luật
hiện
hành,
về
nguyên
tắc,
các
giao
dịch
về
tài
sản
chung
của
vợ
chồng
đều
phải
do
vợ
chồng
xác
lập,
thực
hiện.
Tuy
nhiên,
trên
thực
tế,
tình
trạng
giao
dịch
liên
quan
đến
tài
sản
chung
của
vợ
chồng
mà
đặc
biệt
là
BĐS
do
một
bên
vợ,
chồng
tự
mình
xác
lập,
thực
hiện
xảy
ra
vô
cùng
phổ
biến
và
thường
xuyên
phát
sinh
tranh
chấp
gây
ảnh
hưởng
đến
quyền
và
lợi
ích
hợp
pháp
của
bên
vợ
hoặc
chồng
còn
lại.
Luật
Hôn
nhân
và
gia
đình
năm
2014
quy
định
những
tài
sản
chung
là
tài
sản
mà
pháp
luật
quy
định
việc
định
đoạt
phải
có
sự
thỏa
thuận
bằng
văn
bản
của
vợ
chồng
là:
(i)
BĐS
như
nhà
và
đất;
(ii)
Động
sản
mà
theo
quy
định
của
pháp
luật
phải
đăng
ký
quyền
sở
hữu
như
ô
tô,
mô
tô;
Tài
sản
đang
là
nguồn
tạo
ra
thu
nhập
chủ
yếu
của
gia
đình
như
tài
sản
đang
đầu
tư
kinh
doanh
đáp
ứng
nhu
cầu
sinh
hoạt
của
gia
đình
[15].
Tuy
nhiên,
“
Trong
một
số
trường
hợp
thực
tế,
tuy
một
bên
vợ
hoặc
chồng
không
tham
gia
hợp
đồng
dân
sự,
làm
cho
hợp
đồng
dân
sự
đó
vô
hiệu,
song
thông
qua
các
hợp
đồng
đó
vẫn
nhằm
đáp
ứng
nhu
cầu
thiết
yếu
của
gia
đình
thì
bên
vợ
hoặc
chồng
không
tham
gia
hợp
đồng
vẫn
phải
chịu
trách
nhiệm
liên
đới
đối
với
nghĩa
vụ
đó”[16]. Theo
quy
định
việc
đăng
ký
quyền
sở
hữu,
quyền
sử
dụng
đứng
tên
một
bên
vợ
hoặc
chồng
không
đủ
là
chứng
cứ
chứng
minh
đó
là
tài
sản
riêng
của
một
bên
vợ
hoặc
chồng
[17].
Thực
tế
xét
xử
cho
thấy,
“
trong
thời
kỳ
hôn
nhân,
tài
sản
do
vợ
hoặc
chồng
tạo
ra
là
tài
sản
chung
và
nếu
có
tranh
chấp
về
tài
sản
chung
và
tài
sản
riêng,
nhưng
không
có
chứng
cứ
để
chứng
minh
đó
là
tài
sản
riêng
được
suy
đoán
là
tài
sản
chung
để
giải
quyết”
[18].
Vấn
đề
đặt
ra
là
tài
sản
là
BĐS
do
vợ
chồng
tạo
lập
trong
thời
kỳ
hôn
nhân,
nhưng
giấy
tờ
sở
hữu,
sử
dụng
lại
chỉ
đứng
tên
một
người,
khi
một
bên
vợ
hoặc
chồng
xác
lập
giao
dịch
không
được
sự
đồng
ý
của
bên
kia,
thì
được
giải
quyết
như
thế
nào?
Tác
giả
nêu
ví
dụ
sau:
Năm
2007,
vợ
chồng
ông
Lương
H,
bà
Nguyễn
Kim
T
mua
đấu
giá
05
lô
đất
(bao
gồm
các
lô
đất
số
2,
3,
4,
5,
6)
tại
thị
trấn
Ái
Nghĩa,
huyện
Đại
Lộc,
tỉnh
Quảng
Nam
và
đã
được
UBND
huyện
Đại
Lộc
cấp
Giấy
chứng
nhận
QSDĐ
đứng
tên
ông
Lương
H.
Thực
tế,
bà
T
không
có
văn
bản
thỏa
thuận
về
việc
để
ông
H
đứng
tên
hoặc
ông
H
được
ủy
quyền
định
đoạt
hoặc
xác
định
tài
sản
riêng
của
ông
H
đối
với
05
lô
đất
này.
Tuy
nhiên,
Văn
phòng
công
chứng
lại
công
chứng
Hợp
đồng
thế
chấp
QSDĐ
giữa
ông
Lương
H
(bên
thế
chấp)
với
Ngân
hàng
(bên
nhận
thế
chấp)
về
việc
thế
chấp
quyền
sử
dụng
05
lô
đất
nêu
trên
để
đảm
bảo
cho
các
khoản
vay
của
Công
ty
TNHH
một
thành
viên
Nguyễn
Thành
Tr,
mà
không
có
sự
đồng
ý
của
bà
T
là
trái
pháp
luật.
Do
Giấy
chứng
nhận
QSDĐ
của
UBND
huyện
Đại
Lộc
ghi
cấp
cho
ông
Lương
H,
nên
Văn
phòng
công
chứng
N
đã
công
chứng
Hợp
đồng
thế
chấp
QSDĐ
ngày
21/01/2011.
Tòa
án
cấp
giám
đốc
thẩm
nhận
định:
Theo
quy
định
tại
khoản
1
Điều
28
Luật
Hôn
nhân
và
gia
đình
năm
2000,
khoản
2
Điều
219
BLDS
năm
2005,
vợ,
chồng
có
quyền
và
nghĩa
vụ
ngang
nhau
trong
việc
chiếm
hữu,
sử
dụng,
định
đoạt
tài
sản
chung.
Do
đó,
việc
ông
Lương
H
dùng
tài
sản
chung
của
vợ
chồng
để
thế
chấp,
bảo
đảm
cho
các
khoản
vay
của
Công
ty
TNHH
một
thành
viên
Nguyễn
Thành
Tr
mà
không
có
sự
đồng
ý
của
bà
Nguyễn
Kim
T
là
vi
phạm
các
quy
định
nêu
trên.
Tại
phần
“Lời
chứng
của
CCV”
của
Hợp
đồng
thế
chấp
QSDĐ
ngày
21/01/2011,
CCV
chứng
nhận
“...
Mục
đích,
nội
dung
thỏa
thuận
của
các
bên
trong
hợp
đồng
không
vi
phạm
pháp
luật,
không
trái
với
đạo
đức
xã
hội...”
là
vi
phạm
Điều
5
(về
lời
chứng
của
CCV)
và
điểm
d
khoản
1
Điều
12
(về
các
hành
vi
bị
nghiêm
cấm)
Luật
Công
chứng
năm
2006[19].
Tuy
nhiên,
theo
Điều
48
Luật
Đất
đai
năm
2003,
khoản
3
Điều
43
Nghị
định
số
181/2004/NĐ-CP
ngày
29/10/2004
của
Chính
phủ
về
thi
hành
Luật
Đất
đai
và
khoản
2
Điều
3
Quy
định
về
Giấy
chứng
nhận
QSDĐ
ban
hành
kèm
theo
Quyết
định
số
08/2006/QĐ-BTNMT
ngày
21/7/2006
của
Bộ
trưởng
Bộ
Tài
nguyên
và
Môi
trường
thì
trường
hợp
QSDĐ
là
tài
sản
chung
của
cả
vợ
và
chồng
thì
Giấy
chứng
nhận
QSDĐ
phải
ghi
cả
họ,
tên
vợ
và
họ,
tên
chồng;
nếu
người
sử
dụng
đất
đề
nghị
chỉ
ghi
họ,
tên
vợ
hoặc
chỉ
ghi
họ,
tên
chồng
thì
phải
có
văn
bản
thỏa
thuận
của
vợ
và
chồng
có
công
chứng,
chứng
thực.
Theo
Công
văn
số
725/UBND-TNMT
ngày
13/5/2014
của
UBND
huyện
Đại
Lộc
thì
05
lô
đất
mà
ông
H
được
cấp
Giấy
chứng
nhận
QSDĐ
năm
2008
có
nguồn
gốc
do
Nhà
nước
giao
đất
có
thu
tiền
sử
dụng
đất;
hồ
sơ
cấp
Giấy
chứng
nhận
QSDĐ
cho
ông
H
bị
thất
lạc,
nên
không
cung
cấp
được
văn
bản
thỏa
thuận
của
vợ
chồng
ông
H
về
việc
ông
H
đứng
tên
Giấy
chứng
nhận
QSDĐ.
Mặt
khác,
theo
Thông
báo
của
Hội
đồng
đấu
giá
QSDĐ
huyện
Đại
Lộc
thể
hiện
ông
H
tham
gia
mua
đấu
giá
các
lô
đất
số
2,
3,
4,
5,
6
với
tư
cách
chủ
hộ
gia
đình,
cần
làm
rõ
thành
viên
hộ
gia
đình
sử
dụng
đất
gồm
những
ai.
Với
quy
định
nêu
trên
của
Luật
Đất
đai
năm
2003
và
khoản
4
Điều
98
Luật
Đất
đai
năm
2013
việc
phải
ghi
cả
họ,
tên
vợ
và
họ,
tên
chồng
vào
giấy
chứng
nhận
hay
chỉ
ghi
họ,
tên
vợ
hoặc
chỉ
ghi
họ,
tên
chồng
là
chưa
thống
nhất
trong
cả
nước.
Có
những
địa
phương
thống
nhất
lấy
Luật
Đất
đai
làm
chuẩn
để
cấp
giấy
chứng
nhận,
CCV
khi
chứng
nhận
hợp
đồng
giao
dịch
chỉ
căn
cứ
vào
họ
tên
trên
giấy
chứng
nhận
[20],
hoặc
có
những
địa
phương
chưa
thống
nhất
nhưng
khi
cấp
giấy
chứng
nhận
hoặc
đăng
ký
biến
động
buộc
người
sử
dụng
đất
phải
tự
chứng
minh
tài
sản
chung
riêng
vợ
chồng.
Có
những
địa
phương
buộc
người
yêu
cầu
công
chứng
phải
tự
chứng
minh
khi
tham
gia
giao
dịch.
Điều
131
Dự
thảo
Luật
Đất
đai
(sửa
đổi)
quy
định
về nguyên
tắc
cấp
Giấy
chứng
nhận
quy
định:
“Trường
hợp
QSDĐ
hoặc
QSDĐ,
quyền
sở
hữu
tài
sản
gắn
liền
với
đất
hoặc
quyền
sở
hữu
tài
sản
gắn
liền
với
đất
là
tài
sản
chung
của
vợ
và
chồng
thì
phải
ghi
cả
họ,
tên
vợ
và
họ,
tên
chồng
vào
Giấy
chứng
nhận,
trừ
trường
hợp
vợ
và
chồng
có
thỏa
thuận
ghi
tên
một
người
để
đứng
tên
làm
đại
diện
cho
vợ
và
chồng”.
Như
vậy,
trong
tương
lai,
trong
mọi
trường
hợp
Giấy
chứng
nhận
tài
sản
đứng
tên
vợ
hoặc
chồng
thì
đương
nhiên
là
tài
sản
chung.
Nếu
không
phải
có
giấy
tờ
chứng
minh
là
tài
sản
riêng.
Giải
pháp
này
là
phù
hợp
kể
cả
trường
hợp
đã
cấp
giấy
chứng
nhận
theo
các
luật
đất
đai
trước
đây.
Giải
pháp
này
sẽ
đảm
bảo
an
toàn
pháp
lý
trong
giao
dịch
đối
với
tài
sản
vợ
chồng
trong
thời
gian
tới.
Như
vậy,
với
những
phân
tích
nêu
trên
để
đảm
bảo
an
toàn
pháp
lý
trong
giao
dịch
BĐS
cần
sự
thống
nhất,
đồng
bộ
giữa
các
văn
bản
pháp
luật,
cách
thức
thực
thi
quy
định
của
pháp
luật
trên
thực
tiễn,
đồng
thời
nâng
cao
chất
lượng
dịch
vụ
công
về
công
chứng
trong
thời
gian
tới./.