1.1
Quan
điểm
về
sự
cần
thiết
và
vị
trí,
vai
trò
của các
cơ
quan
chuyên
trách
phòng,
chống
tham
nhũng
trên
thế
giới
Châu
Á
được
coi
như
“cái
nôi”
ra
đời
của
mô
hình
ACA, khi
Singapore
là
quốc
gia
đầu
tiên
thành
lập
thiết
chế
này
vào
năm
1952, tiếp
nối
sau
đó
là
Malaysia
(1967) và Hồng
Kông
(1974)
[4].
Sau
khi
Chiến
tranh
Lạnh
kết
thúc vào
cuối
thập
kỷ
1980,
ACA
tiếp
tục
được
thành
lập
ở
một
số
nước
phát
triển
như
Úc
và
nhiều
quốc
gia
châu
Âu
khác.
Dù
vậy, xét
tổng
thể, ACA
chủ
yếu
được
thành
lập
ở
những
nền
dân
chủ
mới,
nơi
các
cơ
chế
kiểm
soát
quyền
lực
chưa
được
vận
hành
hiệu
quả,
đòi
hỏi
phải
có
những
thiết
chế
bổ
sung
để
tăng
cường
khả
năng
kiềm
chế
tham
nhũng
[5].
Các
quốc
gia
có
những
nhìn
nhận
khác
nhau
về
vị
trí,
vai
trò
của
ACA. Tuy
nhiên,
đa
phần
học
giả
và
các
nhà
hoạt
động
thực
tiễn
trên
thế
giới
đều
nhất
trí
rằng,
việc
thành
lập
thiết
chế
này
là
cần
thiết,
đặc
biệt
ở
những
quốc
gia
mà
tham
nhũng
đã
trở
nên
phổ
biến
và
có
hệ
thống, vì
các
lý
do
sau
đây
[6]:
Thứ
nhất, nạn
tham
nhũng
tràn
lan
và
có
hệ
thống
thường
không
chỉ
bắt
nguồn
từ
những
hạn
chế
trong
hệ
thống
pháp
luật
mà
còn
phản
ánh
thất
bại
của
các
thiết
chế
công
và
quản
trị
nhà
nước
[7].
Vì
vậy,
thay
vì
phải
nỗ
lực
để
cùng
lúc
giải
quyết
đồng
thời
quá
nhiều
bất
cập,
trì
trệ
cả
về
thể
chế,
pháp
luật
và
con
người
tồn
tại
trong
một
thời
gian
dài,
pháp
luật
về phòng,
chống
tham
nhũng (PCTN)
cần
được
thực
thi
và
giám
sát
bởi
một
cơ
quan
chuyên
trách
về
PCTN
với
thẩm
quyền
đủ
mạnh,
được
đảm
bảo
đầy
đủ
về
nguồn
nhân
lực,
tài
chính
và
cơ
sở
vật
chất.
Thứ
hai, khi
PCTN
là
trách
nhiệm
“tập
thể”,
các
cơ
quan
nhà
nước
có
thẩm
quyền
thường
chỉ
ưu
tiên
tập
trung
nguồn
lực
để
thực
hiện
chức
năng,
nhiệm
vụ
chính
của
mình,
PCTN
chỉ
là
một
nhiệm
vụ
được
thực
hiện
“kiêm
nhiệm”,
dẫn
đến
tình
trạng
“cha
chung
không
ai
khóc”,
rất
khó
quy
trách
nhiệm.
Việc
xây
dựng
một
ACA
sẽ
là
cơ
sở
để
xác
định
một
chủ
thể
chịu
trách
nhiệm
chính,
theo
dõi,
đánh
giá
và
điều
phối
những
nỗ
lực
chung
về
PCTN
giữa
các
cơ
quan
có
liên
quan.
Thứ
ba, mặc
dù
việc
thành
lập
ACA
sẽ
đặt
ra
những
thách
thức
nhất
định,
ví
dụ,
đòi
hỏi
nguồn
lực
lớn, nhưng
việc
giải
quyết
những
thách
thức
tồn
tại
trong
một
cơ
quan
duy
nhất
vẫn
ít
phức
tạp
và
khả
thi
hơn
việc
phải
giải
quyết
những
thách
thức
tồn
tại
trong
cùng
lúc
nhiều
cơ
quan
cùng
chịu
trách
nhiệm
về
PCTN
và
cơ
chế
phối
kết
hợp
giữa
những
cơ
quan
này.
1.2 Pháp
luật
quốc
tế
liên
quan
đến
cơ
quan
chuyên
trách
phòng,
chống
tham
nhũng
Công
ước
của
Liên
hiệp
quốc
về
chống
tham
nhũng (UNCAC) được
thông
qua
năm
2003, là
điều
ước
quốc
tế
đầu
tiên
có
hiệu
lực
ràng
buộc
toàn
cầu
về
PCTN
đã
khẳng
định,
việc
thiết
lập
cơ
quan
chống
tham
nhũng
sẽ
góp
phần
thúc
đẩy
và
tăng
cường
hiệu
quả
của
các
chính
sách
và
hoạt
động
PCTN
[8].
Mặc
dù
UNCAC
bỏ
ngỏ
khuyến
nghị
về
việc
thành
lập
một
mô
hình
cơ
quan
PCTN
cụ
thể,
song
Công
ước yêu
cầu
các
quốc
gia
thành
viên
“đảm
bảo
việc
có
một
cơ
quan
hoặc
một
số
cơ
quan
khi
thích
hợp,
có
trách
nhiệm
phòng
ngừa
tham
nhũng” (Điều
6),
và
đặc
biệt
là “đảm
bảo
có
một
hoặc
một
số
cơ
quan
chuyên
trách...
đấu
tranh
chống
tham
nhũng
thông
qua
việc
thực
thi
pháp
luật”
(Điều
36) và
“dành
cho
cơ
quan
này sự
độc
lập
cần
thiết” để
có
thể
thực
hiện
chức
năng
của
mình
một
cách
hiệu
quả
và
“không
chịu
bất
kỳ
sự
ảnh
hưởng
trái
pháp
luật
nào”
(khoản
2Điều
6).
Không
chỉ
vậy, Công
ước
cũng
khuyến
nghị
các
quốc
gia
dành
cho
các
cơ
quan
này
những
phương
tiện
vật
chất
và
đội
ngũ
cán
bộ
chuyên
trách
cần
thiết, cũng
như
cần
đào
tạo
đội
ngũ
cán
bộ
của
các
cơ
quan
này
để
họ
có
thể
thực
hiện
tốt
nhiệm
vụ
của
mình (khoản
2 Điều
6).
1.3 Các
mô
hình
cơ
quan
chuyên
trách
phòng,
chống
tham
nhũng
trên
thế
giới
Căn
cứ
vào
vị
trí của
ACA
trong
hệ
thống
chính
trị,
mức
độ
độc
lập
với
các
cơ
quan
khác
trong
bộ
máy
nhà
nước,
có
thể
chia
các
ACA
trên
thế
giới
thành
03 loại
mô
hình
sau
[9]:
Thứ
nhất,
mô
hình
nghị
viện: là
mô
hình
trong
đó
ACA
trực
thuộc
nhánh
lập
pháp,
độc
lập
với
cơ
quan
hành
pháp
và
tư
pháp,
được
nghị
viện
thành
lập
và
chịu
trách
nhiệm
trước
nghị
viện.
Điển
hình
cho
mô
hình
này
là
Cơ
quan
Chống
tham
nhũng
độc
lập của
bang New
South
Wales của Úc (NSW-ICAC).
NSW-ICAC
được
trao
quyền
điều
tra
những
cáo
buộc
tham
nhũng
liên
quan
đến
các
chủ
thể
thuộc
khu
vực
công.
Cơ
quan
này
không
được
trao
quyền
truy
tố
nhưng
được
phép
đề
nghị
cơ
quan
công
tố
cân
nhắc
việc
truy
tố
các
cá
nhân
được
cho
là
phạm
tội
[10].
Mô
hình
này
thường
vận
hành
hiệu
quả
khi
cơ
quan
lập
pháp
độc
lập
và
đủ
mạnh
để
kiềm
chế
và
đối
trọng
quyền
lực
với
hành
pháp.
Thứ
hai,
mô
hình
cơ
quan
đặc
trách
điều
tra
chống
tham
nhũng: là
mô
hình
mà
ACA
trực
thuộc
Chính
phủ,
chịu
trách
nhiệm
trực
tiếp
trước
Chính
phủ,
được
giao
thực
hiện
các
chức
năng
cơ
bản
như
phòng
ngừa,
giáo
dục
tăng
cường
nhận
thức
và
điều
tra
tham
nhũng.
Mô
hình
này
thường
được
thành
lập
ở
những
quốc
gia
mà
cơ
quan
hành
pháp
có
sức
mạnh
vượt
trội
hơn
các
nhánh
quyền
lực
khác.
Điển
hình
cho
mô
hình
này
là
Cơ
quan
Điều
tra
Hành
vi
tham
nhũng của Singapore
(CPIB).
Trong
hầu
hết
các
trường
hợp,
chức
năng
truy
tố
được
trao
cho
một
cơ
quan
khác
ngoài
ACA
[11].
Tuy
nhiên,
Cơ
quan
chống
tham
nhũng
của
Hồng
Kông (ICAC),
Uỷ
ban
Diệt
trừ
tham
nhũng
của
Indonesia
(KPK)
và
một
số
nước
châu
Âu
như
Na
Uy,
Romania,
Bỉ...
mặc
dù
đi
theo
mô
hình
này
nhưng
vẫn
trao
thêm
thẩm
quyền
truy
tố
cho
ACA.
Thứ
ba,
mô
hình
đa
cơ
quan: mô
hình
này
phổ
biến
ở
những
quốc
gia
phát
triển
và
đang
chuyển
đổi,
nơi
mà
tình
trạng
tham
nhũng
thường
nghiêm
trọng
[12].
Với
mô
hình
này,
Nhà
nước
có
thể
sử
dụng
các
cơ
quan
thanh
tra,
giám
sát,
kiểm
toán
làm
lực
lượng
nòng
cốt
trong
phát
hiện
tham
nhũng.
Khi
có
dấu
hiệu
hình
sự,
hồ
sơ
vụ
việc
được
chuyển
cơ
quan
điều
tra
và
công
tố.
Đây
là
mô
hình
phổ
biến
ở
Ai
Cập,
Hàn
Quốc,
Trung
Quốc,
Việt
Nam...
Ngay
cả
ở
Mỹ,
PCTN
là
trách
nhiệm
của
03
cơ
quan
nòng
cốt,
bao
gồm
Cục
Quản
lý
Đạo
đức
Công
chức
(OGE),
Bộ
Tư
pháp
và
Cơ
quan
Cảnh
sát
Liên
bang.
Bên
cạnh
những
quốc
gia
thiết
lập
ACA theo
một
trong
ba
mô
hình
nêu
trên, ở
những
quốc
gia
phát
triển
như
Đức,
Pháp....
nơi
tham
nhũng
có
xảy
ra
nhưng
không
nghiêm
trọng, Nhà
nước không
thành
lập
cơ
quan
chuyên
trách
về
PCTN.
Điều
này dựa
trên
quan
điểm
cho
rằng,
cũng
như
các
tội
phạm
khác,
tham
nhũng
có
thể
được
phòng
ngừa
khi
hiệu
quả
quản
trị
công
được
tăng
cường.
Thêm
vào
đó, ở
những
nước
đã
nêu,
các
cơ
quan
chống
tội
phạm
kinh
tế
hoặc
điều
tra
hình
sự
đã
có
đủ
thẩm
quyền
và
hoạt
động
hiệu
quả, tức
là
có
đủ năng
lực
để
chống
tham
nhũng
nên
Nhà
nước
thấy
không
cần
thiết
phải
xây
dựng
một
cơ
quan
chuyên
trách
xử
lý
loại
tội
phạm
này.
Cũng
cần
lưu
ý
rằng,
việc
phân
chia
mô
hình
các
ACA
như
trên
chỉ
mang
tính
tương
đối,
vì
có
những
ACA
khó
có
thể
xếp
vào
một
mô
hình
nào,
ví
dụ, Cơ
quan
Giám
sát
Quốc
gia
(NSC) của
Trung
Quốc.
Cơ
quan
này
được
Hiến
pháp
Trung Quốc ghi
nhận
là “cơ
quan
giám
sát
tối
cao”
của
cả
nước
(Điều
125),
chịu
sự
giám
sát
trực
tiếp
của
Quốc
hội
và
được
đảm
bảo
tính
độc
lập
do
được
trao
thẩm
quyền
đặc
biệt
trong
điều
tra
tham
nhũng.
Theo
nhận
định
của
nhiều
nhà
quan
sát
phương
Tây,
với
thẩm
quyền
điều
tra
đặc
biệt
(được
bác
bỏ
quyền
của
nghi
phạm
được
tiếp
cận
luật
sư,
thành
viên
gia
đình;
được
phép
giam
giữ
nghi
phạm
đến
6
tháng
mà
không
cần
sự
chấp
thuận
của
cơ
quan
tư
pháp;
thẩm
quyền
điều
tra
rộng
hơn
cả
Uỷ
ban
Kiểm
tra
Kỷ
luật
Trung
ương
khi
được
phép
điều
tra
những
đối
tượng
không
phải
đảng
viên...),
NSC
dường
như
thuộc
nhánh
quyền
lực
thứ
tư
trong
hệ
thống
chính
trị
Trung
Quốc,
bên
cạnh
lập
pháp,
hành
pháp
và
tư
pháp
[13].
1.4 Các
yếu
tố
tác
động
đến
hiệu
quả
hoạt
động
của
cơ
quan
chuyên
trách
phòng,
chống
tham
nhũng
Thứ
nhất,
quyết
tâm
chính
trị
ở
cấp
cao
nhất[14].
Hoạt
động
của
các
ACA
động
chạm
trực
tiếp và
quyết
liệt
đến
các
cá
nhân
và
nhóm
lợi
ích
đầy
quyền
lực,
vì
vậy,
việc
thành
lập
và
hoạt
động
của
các
cơ
quan
này
cần
đến
quyết
tâm
chính
trị
ở
cấp
cao
nhất. Quyết
tâm
chính
trị
cần
được
cụ
thể
hoá
bằng
cam
kết
thể
chế
hoá
vị
trí,
vai
trò,
chức
năng,
nhiệm
vụ
và
thẩm
quyền
của
ACA.
Một
số
quốc
gia
cho
rằng,
cam
kết
phân
bổ
tài
chính
đầy
đủ
và
trả
lương
cao
cho
nhân
viên
của
ACA
là
minh
chứng
rõ
nhất
cho
quyết
tâm
của
lãnh
đạo
cấp
cao
nhất
dành
cho
cuộc
chiến
chống
tham
nhũng
[15].
Ví
dụ, đối
với
ICAC của
Hồng
Công,
quyết
tâm
chính
trị
được
thể
hiện
ở
số
lượng
nhân
sự
gồm
hơn
1.200
người
(thống
kê
năm
2012)
và
74%
ngân
sách
của
năm
dành
cho
hoạt
động
điều
tra,
tương
đương
112
triệu
USD
[16].
Thứ
hai,
tính
độc
lập
của
ACA. Tính “độc
lập”
của
ACA
cần
được
hiểu
là
sự
độc
lập
tương
đối, theo
nghĩa
cơ
quan
này
chỉ
hoạt
động
theo
Hiến
pháp
và
pháp
luật,
vì
lợi
ích
chung
của
Nhà
nước
và
xã
hội
mà
không
chịu
sự
chi
phối
của
bất
cứ
nhánh
quyền
lực
nào.
Kinh
nghiệm
quốc
tế
cho
thấy,
tính
chất
độc
lập
của
ACA
bao
hàm
trong
đó
sự
độc
lập
về
cơ
cấu
tổ
chức,
quy
trình
tuyển
dụng,
bổ
nhiệm
nhân
sự,
thẩm
quyền
điều
tra
và
ngân
sách
hoạt
động
[17].
Tổ
chức
OECD
khuyến
nghị
rằng,
một
trong
những
cách
để
đảm
bảo
tính
độc
lập
của
ACA
là
quy
định
thời
hạn
02
nhiệm
kỳ
cho
người
đứng
đầu
để
giảm
thiểu
khả
năng
chịu
tác
động
của
việc
bầu
cử
cũng
như
những
thay
đổi
có
thể
có
khi
nội
các
mới
được
hình
thành
[18]. Ở
Pakistan,
Giám
đốc
Cục
Trách
nhiệm
Giải
trình
Quốc
gia
Pakistan
(NAB)
được
Tổng
thống
bổ
nhiệm
theo
đề
nghị
của
Chủ
tịch
Quốc
hội
và
lãnh
đạo
đảng
đối
lập
trong
Quốc
hội
nhằm
giảm
thiểu
nguy
cơ
can
thiệp
chính
trị
vào
quy
trình
tuyển
chọn
nhân
sự
[19].
Về
kinh
phí
hoạt
động,
UNCAC
khuyến
nghị
rằng,
kinh
phí
cho
ACA cần
được
luật
hoá cho
nhiều
năm
liên
tiếp
nhằm
phòng
ngừa
khả
năng
cơ
quan
lập
pháp
sử
dụng
quyền
phê
duyệt
ngân
sách
để
hạn
chế
sự
độc
lập
hoặc
gây
ảnh
hưởng
không
thích
hợp
lên
hoạt
động
của
ACA
[20].
Thứ ba,
thẩm
quyền của
ACA: Một
ACA
không
được
trao
thẩm
quyền
tương
xứng
với
chức
năng,
nhiệm
vụ
của
mình
thì
cũng
giống
như “hổ
không
răng”.
Nhìn
chung,
các
ACA
cần
được
trao
nhiều
thẩm
quyền
hơn
cả
các
cơ
quan
thực
thi
pháp
luật.
Bên
cạnh
những
thẩm
quyền
phổ
biến,
nhiều
quốc
gia
trao
cho
ACA
thẩm
quyền
đặc
biệt
như
tiếp
cận
thông
tin
tình
báo,
nghe
lén,
thậm
chí
là “điều
tra
giăng
bẫy”...
[21].
Ở
một
số
quốc
gia,
người
đứng
đầu
ACA
không
phải
thông
báo
cho
người
đứng
đầu
cơ
quan
công
tố
hay
kiểm
sát
hoặc
bộ
trưởng
tư
pháp
khi
bắt
đầu
cuộc
điều
tra.
Ví
dụ,
ở Singapore,CPIB
được
trao
quyền
độc
lập
ra
quyết
định
bắt
giữ,
điều
tra,
tiếp
cận
thông
tin,
hồ
sơ
cá
nhân,
tài
khoản
ngân
hàng.Việc
không
cung
cấp
thông
tin
cho
CPIB
sẽ
bị
truy
cứu
trách
nhiệm
hình
sự.
Thứ
tư, trách
nhiệm
giải
trình
của
ACA: Trách
nhiệm
giải
trình
của
ACA
bao
gồm
trách
nhiệm
giải
trình
trực
tiếp
với
cơ
quan
mà
nó
trực
thuộc
và
một
(số)
uỷ
ban
giám
sát
của
nghị
viện
và/hoặc
một
uỷ
ban
bao
gồm
cả
những
đại
diện
liên
ngành
và
tổ
chức
xã
hội.
Ví
dụ,
NSW-ICAC
của
Úc
cùng
lúc
phải
chịu
sự
giám
sát
của
02
uỷ
ban
giám
sát
nội
bộ
và
02
uỷ
ban
giám
sát
bên
ngoài,
trong
đó
uỷ
ban
giám
sát
nội
bộ
chịu
trách
nhiệm
đánh
giá
về
các
chính
sách
của
tổ
chức
này
về
phòng
ngừa,
giáo
dục,
nghiên
cứu
và
điều
tra
tham
nhũng;
các
uỷ
ban
giám
sát
từ
bên
ngoài
chịu
trách
nhiệm
đảm
bảo
rằng
cơ
quan
này
phải
chịu
trách
nhiệm
giải
trình
trước
người
dân.
1.5 Những
giá
trị
mà
Việt
Nam
có
thể
tham
khảo
Từ
những
phân
tích
ở
các
mục
trên, có
thể
rút
ra
một
số
giá
trị
mà
Việt
Nam
có
thể
tham
khảo
như
sau:
Thứ
nhất, việc
hợp
nhất
nhiều
cơ
quan
PCTN
thành
một
cơ
quan
chuyên
trách
PCTN
quốc
gia
là
hướng
đi
phù
hợp
trong
bối
cảnh
tham
nhũng
ngày
càng
phức
tạp,
khó
kiểm
soát
và
có
hệ
thống.
Giải
pháp
duy
trì
mô
hình
đa
cơ
quan chỉ
thích
hợp khi thực
trạng
tham
nhũng
không
nghiêm
trọng
và
việc
hoàn
thiện
thể
chế,
pháp
luật cho
hoạt
động
của
những
cơ
quan
này là
khả
thi.
Bối
cảnh
hiện
nay
ở
nước
ta
không
ủng
hộ
việc
duy
trì mô
hình
đa
cơ
quanPCTN.
Thứ
hai, ACA cần
có
vị
thế
độc
lập
với
các
thiết
chế
khác
của
bộ
máy
nhà
nước,
song
đồng
thời
phải
có
trách
nhiệm
giải
trình.
Để
đảm
bảo
tính
độc
lập
và
trách
nhiệm
giải
trình
của
ACA,
cần
hiến
định
hoặc
luật
hoá
địa
vị
pháp
lý
của
cơ
quan
này
trong
hệ
thống
chính
trị.
Có
thể
cân
nhắc
ban
hành
một
đạo
luật
riêng
quy
định
về
vị
trí,
vai
trò,
chức
năng,
nhiệm
vụ,
thẩm
quyền,
cơ
chế
bổ
nhiệm
hay
miễn
nhiệm
người
đứng
đầu,
ngân
sách
hoạt
động,
nguyên
tắc
phê
duyệt
kinh
phí,
quy
chế
tuyển
dụng,
và
cơ
chế
phối
hợp
của
cơ
quan
này
với
các
chủ
thể
có
liên
quan
khác
trong
PCTN.
Cơ
cấu
nhân
sự
của
cơ
quan
này
cần
có
đại
diện
của
khu
vực
tư,
ví
dụ
như
thành
viên
của
các
tổ
chức
xã
hội
hoạt
động
trong
lĩnh
vực
PCTN,
các
nhà
khoa
học,
chuyên
gia
có
uy
tín
trong
lĩnh
vực
quản
trị
nhà
nước
và
PCTN.
Thứ
ba, việc
xây
dựng
và
tăng
cường
năng
lực
cho
ACA
cần
đặt
trong
những
nỗ
lực
cải
cách
toàn
diện
các
hoạt
động
phát
hiện,
điều
tra,
truy
tố
và
xử
lý
tham
nhũng.
Cần
nghiên
cứu
các
biện
pháp
để
cân
bằng
giữa
việc
mở
rộng thẩm
quyền
điều
tra của
ACA và
việc
bảo
đảm
các
quyền
con
người
cơ
bản
của
nghi
phạm.
2.
Các
cơ
quan
phòng, chống
tham
nhũng
ở
nước
ta
hiện
nay
Điều
75
Luật
PCTN
nước
ta
quy
định
một
số
đơn
vị
chuyên
trách
PCTN,
cụ
thể
như
sau:
-
Cục
Chống
tham
nhũng trực
thuộc
Thanh
tra
Chính
phủ,
có
chức
năng
giúp
Tổng
Thanh
tra
thực
hiện
quản
lý
nhà
nước
về
công
tác
PCTN;
thực
hiện
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
thanh
tra
chống
tham
nhũng
theo
thẩm
quyền
của
Thanh
tra
Chính
phủ.
Kể
từ
khi
được
thành
lập,
hoạt
động
thanh
tra,
kiểm
tra
trách
nhiệm
thực
hiện
pháp
luật
về
PCTN
của
Cục
Chống
tham
nhũng
được
đánh
giá
là
còn
hình
thức,
kết
quả hạn
chế.
Nguyên
nhân
quan
trọng
được
xác
định
là
do
nhiệm
vụ
và
quyền
hạn
mà
cơ
quan
này
được
giao
chưa
thực
sự
tương
xứng.
Ví
dụ, các
kết
luận
thanh
tra
không
được
coi
là
chứng
cứ
và
khi
phát
hiện
dấu
hiệu
tham
nhũng,
Thanh
tra
Chính
phủ
không
có
quyền
điều
tra
ban
đầu
mà
chỉ
có
thể
đề
nghị
cơ
quan,
tổ
chức
có
thẩm
quyền
xử
lý
(Điều
76).
-
Cục
Cảnh
sát
điều
tra
tội
phạm
về
kinh
tế
và
tham
nhũng (Cục
C48): C48
là
đơn
vị
trực
thuộc
Tổng
cục
Cảnh
sát
phòng,
chống
tội
phạm,
có
chức
năng
tham
mưu
cho
Tổng
Cục
trưởng,
Thủ
trưởng
Cơ
quan
Cảnh
sát
điều
tra
của
Bộ
Công
an
chỉ
đạo,
hướng
dẫn
lực
lượng
cảnh
sát
điều
tra
tội
phạm
tham
nhũng
trong
cả
nước; tiến
hành
những
biện
pháp
phòng
ngừa,
phát
hiện,
điều
tra,
xử
lý
các
loại
tội
phạm
về
tham
nhũng,
trực
tiếp
điều
tra
các
vụ
án
về
tham
nhũng
theo
quy
định
pháp
luật
và
theo
chỉ
đạo
của
Bộ
trưởng
Bộ
Công
an.
Một
trong
những
khó
khăn,
vướng
mắc
lớn
trong
hoạt
động
của
C48
là
sự
phối
hợp
giữa
cơ
quan
này
với
các
cơ
quan
hữu
quan
còn
nhiều
hạn
chế,
đặc
biệt
là
trong
quan
điểm
xử
lý
án.
Vì
vậy,
án
tham
nhũng
là
án
có
tỷ
lệ hồ
sơ bị
trả để
điều
tra
lại
cao
nhất.
-
Vụ
Thực
hành
quyền
công
tố
và
kiểm
sát
điều
tra
án
tham
nhũng (Vụ
1B):
Cơ
quan
này trực
thuộc
Viện
Kiểm
sát
nhân
dân
tối
cao,
được
trao
thẩm
quyền
thực
hành
quyền
công
tố, kiểm
sát
điều
tra
các
vụ
án
tham
nhũng
và
các
công
tác
khác
có
liên
quan.
Vụ
1B
cũng
gặp
khó
khăn
trong
hoạt
động
phối
hợp,
trao
đổi
thông
tin
với
các
cơ
quan,
đơn
vị
chuyên
trách
về
PCTN
khác,
đặc
biệt
là
trong
việc
phát
hiện
tội
phạm,
giải
quyết
tin
báo
tố
giác
tội
phạm
về
tham
nhũng. Ngoài
ra,
do
Viện
Kiểm
sát
không
có
chức
năng
kiểm
sát
việc
xử
lý
các
vi
phạm
hành
chính
nên Vụ
1Bkhông
có
căn
cứ
pháp
lý
[22] để theo
dõi
tình
hình
các
vụ
việc
tham
nhũng
được
các
ngành,
các
cấp
phát
hiện
nhưng
chỉ
xử
lý
hành
chính
mà
không
kiến
nghị
khởi
tố
để
xử
lý
hình
sự.
Những
phân
tích
ở
trên
cho
thấy, Việt
Nam
áp
dụng
mô
hình
đa
cơ
quan trong
PCTN.
Tuy
nhiên,
vì
có
quá
nhiều
chủ
thể
tham
gia
nhưng
không
có
chủ
thể
làm
đầu
mối
chịu
trách
nhiệm
chính,
mô
hình
này
có
nhiều
bất
cập,
hạn
chế
sau
đây:
-
Quan
hệ
giữa
các
tổ
chức
Đảng
với
các
cơ
quan
nhà
nước. Hiện
nay,
pháp
luật
chưa
quy
định
cơ
chế
phối
hợp
giữa
Uỷ
ban
Kiểm
tra
các
cấp
của
Đảng
với
các
cơ
quan
được
giao
chức
năng
PCTN
của
Nhà
nước
như
Thanh
tra
Chính
phủ,
Bộ
Công
an,
Viện
Kiểm
sát,
Tòa
án,
Kiểm
toán.
Một
số
văn
bản
của
Đảng,
ví
dụ
như Chỉ
thị
15-CT/TW
ngày
07/7/2007 của
Bộ
Chính
trị
về
sự
lãnh
đạo
của
Đảng
đối
với
các
cơ
quan
bảo
vệ
pháp
luật
trong
công
tác
điều
tra,
xử
lý
các
vụ
án
và
công
tác
bảo
vệ
Đảng,
quy
định
cấm
tiến
hành
biện
pháp
điều
tra
bí
mật
đối
với
đảng
viên; trước
khi
điều
tra
một
vụ
việc
liên
quan
đến
cán
bộ,
đảng
viên
phải
xin
ý
kiến
chỉ
đạo
của
các
cấp
uỷ
đảng
(khoản
1
Điều
5). Mặc
dù quy
định
này
nhằm
mục
đích
bảo
vệ
nội
bộ
Đảng
nhưng
nếu
không
được
thực
hiện
đúng
thì
vô
hình
trung
sẽ
tạo
ra
một
“vùng
cấm”,
cản
trở
việc
phát
hiện
và
xử
lý
tham
nhũng.
-
Quan
hệ
giữa
các
cơ
quan
nhà
nước
với
nhau. Hiện
có
nhiều
bất
cập
trong
việc
phối
hợp
giữa
các
cơ
quan
thanh
tra,
kiểm
toán
và
các
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng,
xét cả
về
quy
định
của
pháp
luật
và
sự
vận
hành
trong
thực
tế
[23].
Ví
dụ, khi
phát
hiện
dấu
hiệu
tham
nhũng,
hồ
sơ
vụ
việc
được
các
cơ
quan
thanh
tra,
kiểm
toán
chuyển
sang
cho
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
nhưng
các
cơ
quan
này
vẫn
phải
tiến
hành
thu
thập
lại
chứng
cứ
từ
đầu
(do
những
kết
luận
thanh
tra,
kiểm
toán
không
được
coi
là
chứng
cứ),
làm
chậm
tiến
độ
giải
quyết
các
vụ
án.
Hơn
nữa,
hiện
pháp
luật
chưa
quy
định
tiêu
chuẩn
chung
trong
đánh
giá
các
vụ
việc
có
dấu
hiệu
tham
nhũng
giữa
các
cơ
quan
hữu
quan
nên
các
cơ
quan
này
thường
lúng
túng
khi
xảy
ra
bất
đồng
quan
điểm.
-
Quan
hệ
giữa
các
cơ
quan
Đảng,
cơ
quan
nhà
nước
với
người
dân. Theo
Báo
cáo
về
công
tác
phát
hiện,
điều
tra
và
thi
hành
án
hình
sự
đối
với
tội
phạm
tham
nhũng
giai
đoạn
2005-2015
của
Bộ
Công
an, trong
thời
gian
từ
1/6/2006
đến
31/8/2015,
58% vụ
việc
tham
nhũng
tại
Việt
Nam
được
phát
hiện
và
xử
lý
dựa
trên
tố
cáo
của
người
dân
và
cơ
quan
báo
chí.
Tuy
nhiên,
việc
tố
cáo
tham
nhũng
của
người
dân
và
điều
tra
tham
nhũng
của
các
cơ
quan
báo
chí
hiện
còn
có
nhiều
trở
ngại, tỷ
lệ
người
tố
cáo
tham
nhũng
giảm
mạnh
trong
giai
đoạn
2011-
2015
từ
9%
xuống
2,5%
[24].
3.
Xây
dựng mô
hình
cơ
quan
chuyên
trách
phòng, chống
tham
nhũng
ở
Việt
Nam
Kinh
nghiệm
trên
thế
giới
và
bối
cảnh
thực
tế
của
Việt
Nam
hiện
nay
cho
thấy, việc
xây
dựng mô
hình
cơ
quan
phòng, chống
tham
nhũng
thuộc
Quốc
hội, chịu
trách
nhiệm
trực
tiếp
trước
Quốc
hội
tỏ
ra
phù
hợp
hơn
cả.
Mô
hình
này phù
hợp
với
Hiến
pháp,
với
chức
năng
lập
pháp
và
giám
sát
của
Quốc
hội,
có
thể
giúp
giám
sát
cả
cơ
quan
hành
pháp
và
tư
pháp (những
cơ
quan
có
độ
rủi
ro
tham
nhũng
cao
hơn
so
với
cơ
quan
lập
pháp) mà
vẫn
đảm
bảo
vai
trò
lãnh
đạo,
chỉ
đạo
của
Đảng
trong
PCTN.
-
Về
cơ
sở
pháp
lý,
việc
thành
lập
Uỷ
ban
Quốc
gia
chống
tham
nhũng
độc
lập
(Uỷ
ban)
lý
tưởng
nhất
là
được
quy
định
trong
Hiến
pháp. Tuy
nhiên,
do
Hiến
pháp năm 2013
vừa
mới
được
thông
qua
nên
đề
xuất
sửa
đổi,
bổ
sung
Hiến
pháp
là
thiếu
khả
thi. Mặc
dù
vậy, có
thể
đưa
việc
thành
lập
ACA
vào
Luật
PCTN
đang
được
sửa
đổi, để
giúp
khẳng
định
và
tăng
cường
vị
trí,
vai
trò
của
thiết
chế
quan
trọng
này
trong
đời
sống
chính
trị,
xã
hội
của
đất
nước.
-
Về
cơ
cấu
tổ
chức:
Uỷ
ban
này
trực
thuộc
và
chịu
trách
nhiệm
trước
Quốc
hội,
có
bộ
máy
điều
tra
riêng,
chịu
sự
giám
sát
của
Uỷ
ban
thường
vụ
Quốc
hội
theo
cơ
chế
báo
cáo,
giải
trình
định
kỳ.
-
Về
thẩm
quyền, Uỷ
ban
được
trao
thẩm
quyền
điều
tra
tham
nhũng
nhưng
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
tối
cao
vẫn
giữ
quyền
công
tố,
giám
sát
hoạt
động
điều
tra
của
Uỷ
ban
này
để
đảm
bảo
tính
khách
quan
của
hoạt động
điều
tra.
Uỷ
ban
được
phép
yêu
cầu
cung
cấp
thông
tin
từ
bất
cứ
pháp
nhân
và
thể
nhân
nào
mà
không
cần
có
quyết
định
của
Toà
án,
nhưng
Toà
án
vẫn
có
quyền
đánh
giá
tính
hợp
pháp
của
quá
trình
điều
tra.
-
Về
nhân sự
và
tính
đại
diện
trong
tổ
chức:
Cần
đảm
bảo
sự
đa
dạng
về
thành
phần
của
Uỷ
ban,
theo
đó,
nhân
sự
của
Uỷ
ban
bao
gồm những
chuyên
gia
có
uy
tín,
tâm
huyết,
giàu
kinh
nghiệm
và
giỏi
chuyên
môn,
có
thể
điều
động
lâm
thời
hoặc
nhận
biệt
phái
các
điều
tra
viên
trong
các
cơ
quan
tư
pháp
khác;
có
thể
huy
động
sự
ủng
hộ
rộng
rãi
và
nguồn
nhân
lực
có
chuyên
môn
cao
của
nhiều
chủ
thể
khác
thuộc
khu
vực
tư
như
các
tổ
chức
xã
hội,
giới
học
thuật,
doanh
nghiệp,
cơ
quan
truyền
thông…
-
Về
ngân
sách
hoạt
động:
Ngân
sách
dành
cho
hoạt
động
của
Uỷ
ban
cần
được
đảm
bảo
đầy
đủ
và
ổn
định./.
Tài
liệu
tham
khảo
1. Chan
Louis
(2014),
Anti-Corruption
Commissions
in
China:
Panacea
or
Cure-all
Medicine
to
Fight
Corruption
(Các
cơ
quan
chống
tham
nhũng:
Thuốc
chữa
bách
bệnh
trong
đấu
tranh
chống
tham
nhũng), tạihttps://works.bepress.com/chan_louis/1/,
truy
cập
15/5/2018.
2. Gabriel
Kuris
(2015),
Watchdogs
or
guard
dogs:
Do
anti-corruption
agencies
need
strong
teeth?
(Chó
cảnh
hay
chó
giữ
nhà:
Các
cơ
quan
chống
tham
nhũng
có
cần
răng
khoẻ
không?), Policy
and
Society,
34:2,
125-135,
tại
https://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1016/j.polsoc.2015.04.003,
truy
cập
10/5/2018.
3. Vũ
Công
Giao
(2013),
Cơ
quan
hiến
định
độc
lập:
quan
trọng
nhưng
dễ
thành
“vật
trang
trí”, tại
http://dienngon.vn/blog/Article/co-quan-hien-dinh-doc-lap-quan-trong-nhung-de-thanh-vat-trang-tri,
truy
cập
5/5/2018.
4. John
R.Heilbrunn
(2004),
Anti-Corruption
Commissions:
Panacea
or
Real
Medicine
to
Fight
Corruption, World
Bank
(Cơ
quan
chống
tham
nhũng:
Thuốc
chữa
bách
bệnh
hay
liệu
pháp
thực
tế
để
chống
tham
nhũng), tại
http://siteresources.worldbank.org/PSGLP/Resources/JohnHeilbrunn.pdf,
truy
cập
5/5/2018.
5. Luis
de
Sousa
(2010),
Anti-corruption
agencies:
Between
empowerment
and
irrelevance
(Các
cơ
quan
chống
tham
nhũng:
giữa
trao
quyền
và
những
điểm
không
thích
đáng), tại
http://cadmus.eui.eu/handle/1814/10688,
truy
cập
2/5/2018.
6. McGeorge
Global
Bus.&Dev.L.J.(2007),
Limits
to
the
Independent
Anti-Corruption
Commission
Model
for
Corruption
Reform:
Lessons
from
Indonesia
(Những
hạn
chế
của
Mô
hình
chống
tham
nhũng
độc
lập
trong
cải
cách
chống
tham
nhũng:
Những
bài
học
từ
Indonesia), tại
https://scholarlycommons.pacific.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1013&context=facultyarticles
, truy
cập
5/5/2018.
7. Đinh
Văn
Minh
(2015),
Tổ
chức
và
hoạt
động
của
cơ
quan
phòng,
chống
tham
nhũng
và
một
số
vấn
đề
đặt
ra
hiện
nay”, (Đề
tài
nghiên
cứu
cấp
Bộ
của
Thanh
tra
Chính
phủ).
8. New
South
Wales
Independent
Commission
Against
Corruption:
http://www.icac.nsw.gov.au/,
truy
cập
10/5/2018
9. OECD
Global
Anti-Corruption
&
Integrity
Forum
(2017),
Legitimacy
building
of
Anti-Corruption
Agencies
in
five
countries (
Tính
hợp
pháp
trong
xây
dựng
cơ
quan
chống
tham
nhũng
ở
05
quốc
gia),
tại
https://www.oecd.org/cleangovbiz/Integrity-Forum-2017-Viinam%C3%A4ki-Nwokorie-legitimacy-anti-corruption-agencies.pdf,
truy
cập
10/5/2018
10. OECD
(2008),
Specialized
Anti-Corruption
Institutions,
Review
of
Models:
Anti-Corruption
Network
for
Eastern
Europe
and
Central
Asia (Các
thiết
chế
chống
tham
nhũng
chuyên
trách,
Rà
soát
các
mô
hình:
Mạng
lưới
chống
tham
nhũng
ở
các
nước
Đông
Âu
và
Trung
Á), tại
https://www.oecd.org/corruption/acn/specialisedanti-corruptioninstitutions-reviewofmodels.htm
, truy
cập
5/5/2018.
11. Pháp
luật
Tp. Hồ
Chí
Minh
ngày
20/3/2018,
Siêu
uỷ
ban
Trung
Quốc
giám
sát
200
triệu
người, tại
http://plo.vn/van-hoa/ho-so-phong-su/sieu-uy-ban-trung-quoc-giam-sat-200-trieu-nguoi-760474.html
, truy
cập
5/5/2018.
12. Pháp
luật
Tp.
Hồ
Chí
Minh,
Chính
phủ
không
chỉ
đạo
chống
tham
nhũng
được, http://plo.vn/thoi-su/chinh-phu-khong-chi-dao-chong-tham-nhung-duoc-616897.html
[ngày
13/3/2016];
13. StAR
(2012),
Public
Wrongs,
Private
Actions
:
Civil
Lawsuits
to
Recover
Stolen
Assets
(Việc
công,
Lợi
ích
tư:
Bảo
đảm
trách
nhiệm
giải
trình
thông
qua
công
khai
thu
nhập,
tài
sản),
tại
http://issuu.com/world.bank.publications/docs,
truy
cập
10/5/2018.
14. TI
Georgia
(2014),
Anti-Corruption
Agencies:
International
Experience
and
Reform
Option
for
Georgia
(Các
cơ
quan
chống
tham
nhũng:
Kinh
nghiệm
quốc
tế
và
lựa
chọn
cải
cách
cho
Georgia), tại
http://www.transparency.ge/en/post/report/anti-corruption-agencies-international-experience-and-reform-options-georgian-agencies,
truy
cập
15/5/2018.
15. TI
(2014),
Fighting
corruption:
The
role
of
the
Anti-Corruption
Commission (Chống
tham
nhũng:
Vai
trò
của
Uỷ
ban
chống
tham
nhũng), tại
https://www.transparency.org/news/feature/fighting_corruption_the_role_of_the_anti_corruption_commission,
truy
cập
2/5/2018.
16. TI
Bangladesh
(2017),
Strengthening
anti-corruption
agencies
in
Asia-Pacific:
Executive
Summary
Regional
Synthesis
Report
Key
Findings
and
Recommendations
(Tăng
cường
hiệu
qủa
các
cơ
quan
chống
tham
nhũng
khu
vực
Châu
Á
Thái
Bình
Dương:
Báo
cáo
tóm
tắt
tổng
hợp
khu
vực
về
những
kết
quả
chính
và
khuyến
nghị), tại
https://www.transparency.org/whatwedo/publication/strengthening_anti_corruption_agencies_in_asia_pacific,
truy
cập
10/5/2018.
17. Thomas
Chan
(2002),
Corruption
Prevention
-
The
Hongkong
Experience (
Ngăn
ngừa
tham
nhũng
–
Kinh
nghiệm
của
Hồng
Công),
tham
luận
tại
hội
thảo
của
UNCAC
ở
Sofia,
Bulgaria
29/10/2002,
tại
http://www.unafei.or.jp/english/pdf/RS_No56/No56_30VE_Chan.pdf,
truy
cập
10/5/2018.
18. Thanh
tra
Chính
phủ
(2016),
Báo
cáo
số
330/BC-CP
ngày
22/9/2016
của
Chính
phủ
tổng
kết
10
năm
thực
hiện
Luật PCTN (2005-2015).
19. UNDP
(2005),
Institutional
Arrangements
to
Combat
Corruption:
A
Comparative
Study (Báo
cáo
về
các
thiết
chế
chống
tham
nhũng:
Nghiên
cứu
so
sánh), tại
https://www.un.org/ruleoflaw/blog/document/institutional-arrangements-to-combat-corruption-a-comparative-study/,
truy
cập
5/5/2018.
20. UNDP
(2011),
Methodology
for
Assessing
the
Capacities
of
Anti-Corruption
Agencies
to
Perform
Preventive
Functions
(Phương
pháp
luận
cho
việc
đánh
giá
năng
lực
thực
hiện
chức
năng
của
các
cơ
quan
chống
tham
nhũng),
tại
http://newunkampus.unssc.org/pluginfile.php,
truy
cập
10/5/2018.
[1] Luis
de
Sousa
(2010),
Anti-corruption
agencies:
Between
empowerment
and
irrelevance
(Các
cơ
quan
chống
tham
nhũng:
Giữa
trao
quyền
và
những
điểm
không
thích
đáng), tr.1
[2] Đây
là
cách
gọi
phổ
biến
nhất,
tuy
nhiên
tên
gọi
của
cơ
quan
này
có
thể
khác
nhau
ở
các
quốc
gia:
Anti-Corruption
Commission
(Uỷ
ban
chống
tham
nhũng),
Independent
Commission
Against
Corruption
(Uỷ
ban
chống
tham
nhũng
độc
lập),
Specialized
Anti-Corruption
Unit
(Đơn
vị
chuyên
trách
chống
tham
nhũng),
Anti-Corruption
Unit
(Đơn
vị
chống
tham
nhũng)...
[3] TI
(2014),
Fighting
corruption:
The
role
of
the
Anti-Corruption
Commission
(Chống
tham
nhũng:
Vai
trò
của
Uỷ
ban
chống
tham
nhũng),
tr.1
[5] Vũ
Công
Giao
(2013),
Cơ
quan
hiến
định
độc
lập:
quan
trọng
nhưng
dễ
thành
“vật
trang
trí”; truy
cập
tại:
http://dienngon.vn/Blog/Article/co-quan-hien-dinh-doc-lap-quan-trong-nhung-de-thanh-vat-trang-tri
[ngày
21/5/2018];
[6] McGeorge
Global
Bus.&Dev.L.J.(2007),
Limits
to
the
Independent
Anti-Corruption
Commission
Model
for
Corruption
Reform:
Lessons
from
Indonesia
(Những
hạn
chế
của
Mô
hình
chống
tham
nhũng
độc
lập
trong
cải
cách
chống
tham
nhũng:
Những
bài
học
từ
Indonesia),
tr.327.
[7] OECD
(2008),
Specialized
Anti-Corruption
Institutions,
Review
of
Models:
Anti-Corruption
Network
for
Eastern
Europe
and
Central
Asia
(Các
thiết
chế
chống
tham
nhũng
chuyên
trách,
Rà
soát
các
mô
hình:
Mạng
lưới
chống
tham
nhũng
ở
các
nước
Đông
Âu
và
Trung
Á), tr.17.
[8] TI
Bangladesh
(2017),
Strengthening
anti-corruption
agencies
in
Asia-Pacific:
Executive
Summary
Regional
Synthesis
Report
Key
Findings
and
Recommendations (Tăng
cường
hiệu
qủa
các
cơ
quan
chống
tham
nhũng
khu
vực
Châu
Á
Thái
Bình
Dương:
Báo
cáo
tóm
tắt
tổng
hợp
khu
vực
về
những
kết
quả
chính
và
khuyến
nghị), tr.3
[9] OECD
phân
loại
các
ACAs
thành
03
nhóm
cơ
quan:
(i)
Các
cơ
quan
chống
tham
nhũng
đa
chức
năng;
(ii)
Các
cơ
quan
có
thẩm
quyền
thực
thi
pháp
luật
(điều
tra
và/hoặc
truy
tố);
(iii)
Các
thiết
chế
thiên
về
phòng
ngừa
tham
nhũng
(thông
qua
giáo
dục,
tăng
cường
nhận
thức).
[10] New
South
Wales
Independent
Commission
Against
Corruption:
http://www.icac.nsw.gov.au/
[11] OECD
(2008),
Specialized
Anti-Corruption
Institutions,
Review
of
Models:
Anti-Corruption
Network
for
Eastern
Europe
and
Central
Asia
(Các
thiết
chế
chống
tham
nhũng
chuyên
trách,
Rà
soát
các
mô
hình:
Mạng
lưới
chống
tham
nhũng
ở
các
nước
Đông
Âu
và
Trung
Á),
tr.31
[12] OECD
(2008),
tài
liệu
đã
dẫn,
tr.11
[13] Pháp
luật
Tp.HCM,
Siêu
uỷ
ban
Trung
Quốc
giám
sát
200
triệu
người, truy
cập
tại:
http://plo.vn/van-hoa/ho-so-phong-su/sieu-uy-ban-trung-quoc-giam-sat-200-trieu-nguoi-760474.htm
l
[ngày
20/3/2018];
[14] OECD
Global
Anti-Corruption
&
Integrity
Forum
(2017),
Legitimacy
building
of
Anti-Corruption
Agencies
in
five
countries (Tính
hợp
pháp
trong
xây
dựng
cơ
quan
chống
tham
nhũng
ở
05
quốc
gia), tr.12
[15] Anti-Corruption
commissions
as
a
tool
for
good
governance:
Without
political
will,
it
isn’t
worth
it (
Các
uỷ
ban
chống
tham
nhũng
với
tư
cách
là
một
công
cụ
để
quản
trị
tốt:
Vô
nghĩa
nếu
không
có
quyết
tâm
chính
trị),
https://www.forest-trends.org/wp-content/uploads/imported/3-anti-corruption-commissions-pdf.pdf
[16] OECD
Global
Anti-Corruption
&
Integrity
Forum
(2017),
tài
liệu
đã
dẫn,
tr.24.
[17] OECD
(2008),
tài
liệu
đã
dẫn,
tr.30
[18] OECD
(2008
), tài
liệu
đã
dẫn,
tr.31
[19] TI
Bangladesh
(2017),
tài
liệu
đã
dẫn
, tr.10
[20] UNODC
(2009),
Hướng
dẫn
kỹ
thuật
về
việc
thực
thi
Công
ước
của
Liên
hiệp
quốc
về
chống
tham
nhũng, tr.
15.
UNDP
(2011),
Methodology
for
Assessing
the
Capacities
of
Anti-Corruption
Agencies
to
Perform
Preventive
Functions, tr.16.
[21] “Điều
tra
giăng
bẫy” (sting
operations) là chiến
dịch
kích
thích
nghi
can
thực
hiện
hành
vi
phạm
tội
tham
nhũng
mà
nghi
can
đã
có
ý
định
hoặc
đã
lên
kế
hoạch
thực
hiện
từ
trước,
qua
đó bắt
giữ
tận
tay kẻ
phạm
tội.
Trong
một
số
trường
hợp,
việc
này
còn
bao
gồm khuyến
khích
và
hỗ
trợ
nghi
can
thực
hiện
hành
vi
phạm
tội.
Đây
là
cách
làm
của
cơ
quan
phòng
chống
tham
nhũng
Indonesia (KPK).
Xem Gabriel
Kuris
(2015),
Watchdogs
or
guard
dogs:
Do
anti-corruption
agencies
need
strong
teeth?
(Chó
cảnh
hay
chó
giữ
nhà:
Các
cơ
quan
chống
tham
nhũng
có
cần
răng
khoẻ
không?), Policy
and
Society,
34:2,
125-135.
[22] Đinh
Văn
Minh
(2015),
Tổ
chức
và
hoạt
động
của
cơ
quan
phòng,
chống
tham
nhũng
và
một
số
vấn
đề
đặt
ra
hiện
nay”, Đề
tài
nghiên
cứu
cấp
Bộ
của
Thanh
tra
Chính
phủ,
tr.120.
[23] Thanh
tra
Chính
phủ
(2016),
Báo
cáo
số
330/BC-CP
ngày
22/9/2016
của
Chính
phủ
tổng
kết
10
năm
thực
hiện
Luật PCTN (2005-2015).
[24] Pháp
luật
TP.
Hồ
Chí
Minh,
Chính
phủ
không
chỉ
đạo
chống
tham
nhũng
được, http://plo.vn/thoi-su/chinh-phu-khong-chi-dao-chong-tham-nhung-duoc-616897.html
[ngày
13/3/2016];
Bài
viết
đăng
tải
trên
Ấn
phẩm
Tạp
chí
Nghiên
cứu
Lập
pháp
số
15/2018.