1. Những
bất
cập,
hạn
chế
trong
cơ
chế
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
của
cán
bộ,
công
chức
trong
Dự
thảo
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
sửa
đổi
Kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
(TSTN)
của
cán
bộ,
công
chức
(CBCC)
chủ
yếu
được
thực
hiện
thông
qua
việc
kê
khai,
công
khai
TSTN
của
CBCC
[1].
Tuy
nhiên
cần
lưu
ý
rằng,
một
cơ
chế
kiểm
soát
TSTN
chỉ
thực
sự
hiệu
quả
khi
pháp
luật
không
chỉ
dừng
lại
ở
việc
kiểm
tra
việc
thực
hiện
trách
nhiệm
kê
khai,
công
khai TSTN
của
CBCC
mà
phải
tập
trung
vào
nhiệm
vụ
khó
khăn
hơn,
đó
là
xác
minh
tính
trung
thực
của
nội
dung
kê
khai thông
qua
việc
giám
sát
sự
hình
thành
và
những
biến
động
của
TSTN
của
CBCC
để
có
biện
pháp
xử
lý
kịp
thời,
thoả
đáng
khi
CBCC
không
thực
hiện
nghĩa
vụ
kê
khai
hoặc
kê
khai
không
trung
thực.
Kinh
nghiệm
thế
giới
cho
thấy,
hiệu
quả
của
cơ
chế
kiểm
soát
TSTN
phụ
thuộc
rất
nhiều
vào
quy
định
của
các
quốc
gia
về
cơ
quan
có
thẩm
quyền
kiểm
soát
TSTN;
độ
rộng/hẹp
của
đối
tượng
phải
kê
khai,
công
khai
TSTN;
nội
dung
và
tần
xuất
kê
khai,
công
khai;
phạm
vi
và
cách
thức
xác
minh
thông
tin,
tính
trung
thực
của
việc
kê
khai
và
chế
tài
đối
với
các
vi
phạm
trong
tương
quan
với
nguồn
nhân
lực
và
cơ
sở
vật
chất
của
các
cơ
quan
nhà
nước
có
thẩm
quyền.
1.1. Thẩm
quyền
kiểm
soát
TSTN
Theo
quy
định
của
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
(PCTN)
hiện
hành, Việt
Nam
không
có
một
cơ
quan
chuyên
trách
để
quản
lý
thống
nhất
các
bản
kê
khai,
chịu
trách
nhiệm
tiếp
nhận
các
phản
ánh
về
những
nghi
ngờ
về
tài
sản,
chủ
động
tiến
hành
theo
dõi,
xác
minh
khi
thấy
có
những
biến
động
đáng
ngờ
về
TSTN
của
CBCC.
Vì
vậy,
Điều
32 Dự
thảo
Luật
PCTN
sửa
đổi
hiện
đề
xuất
02
phương
án:
(1)
Giao
Thanh
tra
Chính
phủ
kiểm
soát
TSTN
của
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
hưởng
phụ
cấp
chức
vụ
từ
0,9
trở
lên
công
tác
tại
các
bộ,
cơ
quan
ngang
bộ,
cơ
quan
thuộc
chính
phủ,
chính
quyền
địa
phương; Cơ
quan
thanh
tra
hoặc
đơn
vị phụ
trách
công
tác tổ
chức,
cán
bộ
nơi
không
có cơ
quan thanh
tra
tại
các
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị ở
trung
ương,
thanh
tra
cấp
tỉnh
kiểm
soát
TSTN
đối
với
những
người
có
hệ
số
phụ
cấp
chức
vụ
dưới
0,9
công
tác
tại
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị,
địa
phương
mình;
(2)
Giao
Thanh
tra
Chính
phủ
kiểm
soát
TSTN
của
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
hưởng
phụ
cấp
chức
vụ
từ
0,9
trở
lên
công
tác
tại
các
bộ,
cơ
quan
ngang
bộ,
cơ
quan
thuộc
chính
phủ,
chính
quyền
địa
phương;
Giao Tòa
án
nhân
dân
tối
cao,
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
tối
cao,
Văn
phòng
Chủ
tịch
nước,
Văn
phòng
Quốc
hội,
Văn
phòng
Chính
phủ,
Kiểm
toán
Nhà
nước,
cơ
quan
trung
ương
của
tổ
chức
chính
trị - xã
hội,
tổ
chức
xã
hội
kiểm
soát
TSTN
của
những
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
công
tác
tại
ngành
hoặc
cơ
quan,
tổ
chức
này
và
giao
Ban
Công
tác
đại
biểu
thuộc
Ủy
ban
Thường
vụ
Quốc
hội
kiểm
soát
TSTN
của
đại
biểu
Quốc
hội
chuyên
trách. Theo
chúng
tôi,
một
trong
những
nguyên
nhân
hạn
chế
hiệu
quả
của
cơ
chế
kiểm
soát
TSTN
hiện
nay
là
do
chúng
ta
đang
thiếu
một
bộ
máy
chuyên
trách
và
đủ
năng
lực
để
đảm
nhiệm
nhiệm
vụ
này
khiến
thẩm
quyền
bị
phân
tán
và
dàn
trải
qua
rất
nhiều
đầu
mối
[2].
Do
đó,
việc
giao
Thanh
tra
Chính
phủ
(phương
án
1)
là
cơ
quan
chuyên
trách
kiểm
soát
TSTN
tỏ
ra
hợp
lý
hơn.
Phương
án
này
có
ưu
điểm
là
tập
trung
được
đầu
mối,
đầu
tư
cơ
sở
vật
chất,
công
nghệ,
nguồn
nhân
lực
với
đội
ngũ
cán
bộ
chuyên
trách,
được
đào
tạo
để
đáp
ứng
nhiệm
vụ
được
giao.
Hơn
nữa,
do
kiểm
soát
TSTN
là
một
nội
dung
phức
tạp,
luôn
đòi
hỏi
sự
vào
cuộc
của
nhiều
ngành,
lĩnh
vực
khác
nhau,
vì
vậy,
việc
hoàn
thiện
cơ
chế
phối
hợp
giữa
một
cơ
quan
chuyên
trách
với
các
cơ
quan
khác
có
liên
quan
(ví
dụ
như
cơ
quan
kiểm
toán,
thuế,
cơ
quan
đăng
ký
tài
sản,
các
thiết
chế
tài
chính…)
sẽ
thuận
lợi
hơn
việc
cùng
lúc
phải
hoàn
thiện
cơ
chế
phối
hợp
giữa
quá
nhiều
cơ
quan
khác
nhau.
1.2. Đối
tượng
kê
khai
TSTN
Bên
cạnh
các
đối
tượng
kê
khai
TSTN
theo
Luật
PCTN
hiện
hành
(bao
gồm
những
người
có
chức
vụ
từ
phó
trưởng
phòng
cấp
huyện
trở
lên
và
tương
đương
cùng
một
số
chức
danh
khác), Điều
37
Dự
thảo
Luật
PCTN được
sửa
đổi
theo
hướng
mở
rộng
đối
tượng
phải
kê
khai
TSTN,
theo
đó
mọi
CBCC
đều
có
nghĩa
vụ
kê
khai
TSTN
lần
đầu.
Với
lập
luận
rằng,
so
với
nhóm
đối
tượng
được
hưởng
phụ
cấp
chức
vụ
từ
0,9
trở
lên
hoặc
dưới
0,9
nhưng
làm
việc
ở
một
số
vị
trí
công
tác
trong
lĩnh
vực
có
nguy
cơ
tham
nhũng
cao
cần
phải
kiểm
soát
chặt
chẽ
thì
trước
mắt,
nhóm
đối
tượng
CBCC
còn
lại
chỉ
cần
kiểm
soát
TSTN
ở
mức
độ
đơn
giản
hơn nhằm
hình
thành
cơ
sở
dữ
liệu chung
phục
vụ
cho
công
tác
quản
lý
cán
bộ,
nhưng
không
thuộc
diện
đối
tượng
bị
kiểm
soát
TSTN. Tuy
nhiên,
có
ý
kiến
cho
rằng, việc
xác
định
đối
tượng
phải
kê
khai,
công
khai
TSTN
như
hiện
nay
vẫn
quá
rộng,
dàn
trải
và
hình
thức.
Trách
nhiệm
quản
lý
thủ
công
khoảng
hơn
một
triệu
bản
kê
khai
hằng
năm
là
thách
thức
gây
áp
lực
quá
lớn
cho
các
cơ
quan
chức
năng
khi
nguồn
lực
nhà
nước
chưa
đảm
bảo,
đặc
biệt
trong
bối
cảnh
đầu
mối
cơ
quan
kiểm
soát
TSTN
bị
thu
hẹp. Ngay
cả
khi
quy
định
đối
tượng
có
nghĩa
vụ
kê
khai
lần
đầu
chỉ
nhằm
phục
vụ
công
tác
dữ
liệu
thông
tin
mà
không
thuộc
diện
bị
kiểm
soát
TSTN
thì
trên
thực
tế,
khi
cơ
quan
chức
năng
không
theo
dõi
được
biến
động
và
xác
minh
tính
trung
thực
trong
việc
kê
khai
của
nhóm
này
thì
yêu
cầu
họ
phải
kê
khai,
công
khai
TSTN
là
rất
hình
thức
và
tốn
kém.
Ngoài
ra,
việc
xác
định
đối
tượng
phải
kê
khai,
công
khai
TSTN
như
hiện
nay
đã
bỏ
qua
một
nhóm
đối
tượng
rất
quan
trọng,
đó
là
những
người
thân
thích
khác
của
họ
như
bố,
mẹ,
con
đã
thành
niên,
cộng
sự
thân
thiết
của
đối
tượng
phải
kê
khai
TSTN.
Có
chuyên
gia đã
nhận
định
rằng,
nếu
giữ
nguyên
quy
định
như
hiện
tại
thì
việc
kiểm
soát
TSTN
sẽ
giống
như
kiểm
soát
nước
trong “bình
thông
nhau”.
Bởi
lẽ, TSTN
bất
hợp
pháp
có
thể
được
CBCC chuyển
dịch
sang
những
đối
tượng
này
để
trốn
tránh
sự
kiểm
soát
của
pháp
luật.
1.3. TSTN phải
kê
khai
Về
cơ
bản, Điều
38 Dự
thảo
Luật
PCTN sửa
đổi giữ
nguyên
quy
định
về
TSTN
phải
kê
khai
bao
gồm: quyền
sử
dụng
đất,
nhà
ở,
công
trình
xây
dựng
và
các
tài
sản
khác
gắn
liền
với
đất,
nhà
ở,
công
trình
xây
dựng;
kim
khí
quý,
đá
quý,
tiền,
giấy
tờ
có
giá
và
các
loại
động
sản
khác
mà
mỗi
tài
sản
có
giá
trị
từ
50
triệu
đồng
trở
lên;
tài
sản,
tài
khoản
ở
nước
ngoài.
Bên
cạnh
đó,
Điều
luật
này
còn bổ
sung
thêm
quy
định
kê
khai: “tổng
thu
nhập
tính
từ
lần
kê
khai
trước
đến
thời
điểm
kê
khai
kế
tiếp”.
Dự
thảo
Luật
tại
Điều
42
cũng
quy
định
về
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
của
cơ
quan,
đơn
vị
kiểm
soát
TSTN,
trong
đó
yêu
cầu
người
kê
khai
TSTN
phải
giải
trình
khi
có
biến
động
tăng về
TSTN.
Có
thể
thấy,
nỗ
lực
của
các
nhà
làm
luật
trong
việc
kiểm
soát
cả
sự
hình
thành
và
biến
động
của
TSTN. Tuy
nhiên, Dự
thảo
Luật
PCTN sửa
đổi vẫn
chưa
khoả
lấp
được
một
lỗ
hổng
rất
lớn
trong
quy
định
về
kiểm
soát
TSTN
khi
bỏ
qua
việc
kiểm
soát
cả
sự
giảm
đi về
TSTN
của
CBCC (để
đầu
tư
hoặc
chi
tiêu...
)
trong
khi
việc
gia
tăng
hay
giảm
đi
TSTN
đều
tiềm
ẩn
nguy
cơ
tham
nhũng.
1.4. Công
khai
bản
kê
khai
TSTN
Điều
41
Dự
thảo
Luật
PCTN
sửa
đổi
không
có
những
thay
đổi
lớn
so
với
Luật
PCTN
hiện
hành
về
vấn
đề
này.
Theo
số
liệu
của
Bộ
Công
an
[3],
trong
giai
đoạn
từ
1/6/2006
đến
31/8/2015,
việc
phát
hiện
tham
nhũng
từ
các
biện
pháp
nghiệp
vụ
của
ngành
công
an
là
1.187
vụ
(chiếm
26%);
từ
các
nguồn
khác
như
thanh
tra,
kiểm
toán,
các
cơ
quan
nhà
nước
là
733
vụ
(chiếm
16%)
và
phát
hiện
từ
nguồn
tố
giác,
tin
báo
về
tội
phạm
là
2.628
vụ
(chiếm
58%).
Như
vậy,
đa
số
vụ
việc
tham
nhũng
tại
Việt
Nam
được
phát
hiện
và
xử
lý
dựa
trên
tố
cáo
của
người
dân
và
cơ
quan
báo
chí.
Có
thể
do những
lo
ngại
về
việc
bảo
đảm
an
toàn
cho
người
có
tài
sản
khi
công
khai
bản
kê
khai
TSTN
của
họ
nên
pháp
luật
chưa
cho
phép
việc
công
khai
bản
kê
khai
TSTN
tại
nơi
cư
trú
theo
tinh
thần
rất
tiến
bộ
của
Kết
luận
21
ngày
25/5/2012
của
Bộ
Chính
trị
về
tiếp
tục
thực
hiện
Nghị
quyết
Trung
ương
3.
Tuy
nhiên,
với
cách
quy
định
như
Dự
thảo
luật, pháp
luật
đã
bỏ
qua
một
lực
lượng
rất
hùng
hậu
có
thể
chung
sức tham
gia
và
giám
sát
tính
chính
xác,
trung
thực
của
bản
kê
khai
TSTN,
đồng
thời
tạo
điều
kiện
cho
hiện
tượng
“đóng
cửa
bảo
nhau”
tại
các
cơ
quan
công
quyền.
1.5. Xác
minh TSTN
Ngoài
03
trường
hợp
cần
xác
minh
theo
quy
định
của
Luật
hiện
hành
(khi
có
dấu
hiệu
rõ
ràng
về
việc
kê
khai
không
trung
thực,
khi
có
tố
cáo
về
việc
kê
khai
không
trung
thực;
khi
có
yêu
cầu
của
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị
có
thẩm
quyền),
Dự
thảo
Luật
đã
bổ
sung
thêm
02
trường
hợp
đó
là:
(i)
đối
với
người
được
lựa
chọn
ngẫu
nhiên theo
kế
hoạch
hàng
năm;
(ii)
khi
có
biến
động
về
tổng
giá
trị
TSTN
trong
năm
từ
300
triệu
đồng
trở
lên.
Như
vậy,
đối
với
người
trước
khi
bầu,
phê
chuẩn,
bổ
nhiệm,
bổ
nhiệm
lại
vẫn
có
thể
bị
xác
minh
TSTN
khi
có
1
trong
5
căn
cứ
nêu
trên.
Tuy
nhiên,
việc
quy
định
về
trách
nhiệm
giải
trình
trước
khi
ra
quyết
định
xác
minh
TSTN
(Điều
49)
tỏ
ra
không
phù
hợp.
Bởi
lẽ,
đây
nên
là
bước
cần
thực
hiện
sau
khi
cơ
quan,
đơn
vị
có
thẩm
quyền
xác
minh
yêu
cầu
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
giải
trình.
Về
thời
hạn
xác
minh
TSTN.
Điều
50
Dự
thảo
Luật
PCTN
sửa
đổi
quy
định
chậm
nhất
là
30
ngày
và
có
thể
kéo
dài
nhưng
không
quá
60
ngày
kể
từ
khi
ra
quyết
định
xác
minh,
cơ
quan
có
thẩm
quyền
xác
minh
phải
ban
hành
kết
luận
xác
minh
TSTN.
Quy
định
chưa
thực
sự
phù
hợp
vì
lý
do
sau:
Thứ
nhất,
nguồn
hình
thành
TSTN
ở
Việt
Nam
rất
phức
tạp.
Thu
nhập
của
CBCC
không
chỉ
từ
lương
mà
chủ
yếu
từ
nhiều
nguồn
khác
nhau
và
tích
luỹ
dần
thành
những
khối
tài
sản
mà
người
sở
hữu
khó
giải
trình.
Một
nghiên
cứu
của
Thanh
tra
Chính
phủ
năm
2012
về
“Kiểm
soát
thu
nhập
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn”
đối
với
gần
2.000
CBCC
ở
10
địa
phương
và
05
bộ,
ngành
cho
thấy,
gần
80%
số
người
được
hỏi
thừa
nhận
có
thu
nhập
ngoài
lương
và
các
khoản
phụ
cấp
theo
lương;
mức
thu
nhập
ngoài
lương
của
CBCC
rất
đa
dạng
và
bao
gồm
những
khoản
thu
nhạy
cảm,
dễ
liên
quan
đến
tham
nhũng;
Thứ
hai,
việc
kiểm
tra,
xác
minh
nội
dung
kê
khai
TSTN
cần
được
thực
hiện
trên
cơ
sở
kiểm
tra
thông
tin
chéo
với
nguồn
dữ
liệu
bên
ngoài
(từ
cơ
quan
thuế,
bảo
hiểm,
ngân
hàng,
cơ
quan
quản
lý
nhà
đất…)
mà
những
cơ
sở
dữ
liệu
này
hiện
nay
thường
ở
dạng
hỗn
hợp
hoặc
còn
chắp
vá;
Thứ
ba,
cơ
chế
phối
hợp,
trao
đổi
thông
tin
giữa
các
cơ
quan
có
thẩm
quyền
còn
nhiều
bất
cập.
Ví
dụ,
các
ngân
hàng thường
vận
dụng
quy
định
chỉ
khi
có
quyết
định
thanh
tra,
khởi
tố
vụ
án,
khởi
tố
bị
can
thì
mới
cung
cấp
tài
liệu
cho
cơ
quan
điều
tra
[4]để
từ
chối
không
cung
cấp
thông
tin,
tài
liệu. Vì
vậy,
các
nhà
làm
luật
cần
cân
nhắc
thêm
về
thời
hạn
xác
minh
TSTN
để
đảm
bảo
tính
khả
thi
của
quy
định
và
không
loại
trừ
khả
năng
phải
đồng
thời
sửa
đổi
pháp
luật
về
ngân
hàng,
bảo
mật
thông
tin
để
đảm
bảo
tính
tương
thích,
đồng
bộ.
1.6.
Xử
lý TSTN kê
khai
không
trung
thực,
TSTN tăng
thêm
không
giải
trình
được
một
cách
hợp
lý
Dự
thảo
Luật
PCTN sửa
đổi đã
bổ
sung
Điều
59
quy
định
về
xử
lý
TSTN thực
tế
lớn
hơn
TSTN
đã
kê
khai
hoặc TSTN
tăng
thêm mà
người
kê
khai
không
giải
trình được
một
cách
hợp
lý
về
phần TSTN
chênh
lệch
hoặc tăng
thêm theo
02
phương
án sau:
(1).
Cơ
quan,
đơn
vị kiểm
soát
TSTN
yêu
cầu
cơ
quan thuế
thực
hiện
việc
thu
thuế
thu
nhập
cá
nhân.
Đồng
thời, Dự
thảo
Luật sửa
đổi
Luật
Thuế
thu
nhập
cá
nhân
(bổ
sung
Điều
18a
và
điểm
g
khoản
2
Điều
23),
quy
định
mức
thuế
suất
45% đối
với
thu
nhập
chịu
thuế
do
vi
phạm
quy
định
của
Luật
PCTN
(Điều
123
của Dự
thảo
Luật);
(2)
Cơ
quan,
đơn
vị kiểm
soát
TSTN
yêu
cầu
cơ
quan
có
thẩm
quyền
ra
quyết
định
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính
với
mức
phạt tiền
bằng 45%
giá
trị
của
phần
TSTN
chênh
lệch
hoặc
tăng
thêm.
Trong
cả
hai
trường
hợp,
dự
thảo
Luật đều quy
định
người
bị
thu
thuế
hoặc
bị
xử
phạt
hành
chính
có
quyền
khiếu
nại
hoặc
khởi
kiện tại
Tòa
án
hành
chính về
kết
luận
xác
minh
TSTN.
Việc
thu
thuế
hay
xử
phạt
hành
chính
không
loại
trừ
trách
nhiệm
hình
sự
nếu
các
cơ
quan
có
thẩm
quyền
chứng
minh
tài
sản
đó
do
phạm
tội
mà
có.
Phương
án
thứ
nhất
gây
nhiều
ý
kiến
trái
chiều
khi
có nhiều
người
cho
rằng, đánh
thuế
phần
TSTN
bất
minh
đồng
nghĩa
với
việc
đóng
dấu
hợp
pháp
cho
khối
tài
sản
này;
ý
kiến
khác cho
rằng, đối
với
các
TSTN
mà
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
không
giải
trình
được
một
cách
hợp
lý
về
nguồn
gốc
nhưng
các
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
cũng
chưa
chứng
minh
được
nguồn
gốc
bất
hợp
pháp
của
tài
sản
thì
có
thể
coi
đây
là
các
khoản
thu
nhập
phát
sinh
mà
người
kê
khai
chưa
nộp
thuế
và buộc họ
phải
nộp
thuế là
phù
hợp
trong
điều
kiện
hiện
nay.
Tuy
nhiên,
cũng
cần
lưu
ý
rằng,
vẫn
có
trường
hợp
vì
mục
đích
cá
nhân
mà
CBCC
kê
khai
không
trung
thực
về
TSTN
của
mình
(ví
dụ,
không
kê
khai
một
số
bất
động
sản)
nhưng
khi
được
yêu
cầu
vẫn
giải
trình
hợp
lý
về
nguồn
gốc
tài
sản
và
chứng
minh
tài
sản
đã
được
đóng
thuế
thì
không
thể
tiếp
tục
đánh
thuế
lên
khối
tài
sản
này
để
tránh
hiện
tượng
“đánh
thuế
hai
lần”.
Có
nhiều
ý
kiến
đồng
tình
với
phương
án
thứ
2
khi
biện
giải
rằng,
do
mối
quan
hệ
giữa
Nhà
nước
với
CBCC
trong
kiểm
soát
TSTN
là
mối
quan
hệ
hành
chính,
CBCC
có
nghĩa
vụ phải nghiêm
chỉnh
chấp
hành
Luật
PCTN,
trong
đó
có
nghĩa
vụ trung
thực,
minh
bạch trong
kê
khai
TSTN.
Vì
vậy, đối
với
TSTN thực
tế
lớn
hơn
TSTN
đã
kê
khai
hoặc
TSTN
tăng
thêm
mà
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
không
giải
trình
được
hợp
lý
về nguồn
gốcthì
Nhà
nước
có
thể xử
phạt
hành
chính
đối
với
hành
vi
kê
khai
không
trung
thực,
không
minh
bạch
về
TSTN.
Tuy
nhiên,
vấn
đề
là hiện
nay Luật
Xử
lý
vi
phạm
hành
chính
chưa
quy
định
về
xử
phạt
hành
chính
trong
lĩnh
vực
PCTN,
chưa
quy
định
về
thẩm
quyền
xử
phạt
và
mức
phạt. Do
đó,
nếu
áp
dụng
theo
phương
án
này
thì
cần
sửa
đổi Luật
Xử
lý
vi
phạm
hành
chính
để bổ
sung về
lĩnh
vực
PCTN,
cùng
với
đó
là
sửa
đổi
về
thẩm
quyền,
mức
phạt.
2.
Một
số
kiến
nghị
nhằm
hoàn
thiện
cơ
chế
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
của
cán
bộ,
công
chức
ở
Việt
Nam
-
Về
thẩm
quyền
kiểm
soát TSTN: Sửa
đổi
các
quy
định
có
liên
quan
để
bảo
đảm nguồn
nhân
lực
và
cơ
sở
vật
chất đầy
đủ
cho
việc
tổ
chức
và
kiểm
tra,
giám
sát
việc
kê
khai,
công
khai TSTN theo
hướng giao
Thanh
tra
Chính
phủ làm
đầu
mối
quản
lý,
theo
dõi,
giám
sát,
kiểm
soát,
tiếp
nhận,
xử
lý
thông
tin,
xác
minh
làm
rõ
nguồn
gốc TSTN của
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
trên
toàn
quốc;
cho
phép
cơ
quan
này
áp
dụng
các
biện
pháp
nghiệp
vụ
cần
thiết
để
kiểm
tra,
xác
minh
thông
tin
trong
bản
kê
khai. Nếu
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
giải
trình
không
hợp
lý
về
nguồn
gốc
hoặc
biến
động
của
tài
sản,
cơ
quan
này
có
quyền
khởi
kiện
vụ
án
dân
sự
tại
tòa
để
bảo
vệ
quyền,
lợi
ích
của Nhà
nước.
Trong
quá
trình
tiếp
tục
xác
minh,
nếu
phát
hiện
dấu
hiệu
tham
nhũng
thì
chuyển
cơ
quan
điều
tra
có
thẩm
quyền
xử
lý
về
mặt
hình
sự.
Ngoài
ra,
cần
tăng
cường
thêm
biên
chế
cho
cơ
quan
thanh
tra
để
đáp
ứng
yêu
cầu,
nhiệm
vụ
được
giao.
- Về
đối
tượng
phải
kê
khai TSTN: Thu
hẹp
hợp
lý
diện
đối
tượng
có
nghĩa
vụ
kê
khai,
công
khai TSTN,
theo
tinh
thần
xử
lý
tiêu
cực,
tham
nhũng
của
Nghị
quyết
Trung
ương
3
là
chống
tham
nhũng
phải
"trên
trước,
dưới
sau;
trong
trước,
ngoài
sau”,
nhấn
mạnh
trách
nhiệm
nêu
gương
của
cán
bộ,
đảng
viên,
nhất
là
người
đứng
đầu,
bao
gồm
những
cán
bộ
cấp
cao
hoặc
nhóm
người
làm
việc
trong
những
ngành,
lĩnh
vực
có
nguy
cơ
tham
nhũng
cao, nên
bắt
đầu
từ
các
công
chức
hiện
giữ
chức
vụ
và
hưởng
phụ
cấp
trách
nhiệm
từ
0,9 (Giám
đốc
Sở
và
tương
đương) trở
lên.
-
Về
TSTN
phải
kê
khai
và
tần
xuất
kê
khai,
công
khai: Quy
định
bổ
sung
vào
danh
mục
phải
kê
khai
thông
tin
về:
(i)
các
khoản
nợ,
các
tài
sản
giảm
so
với
kỳ
kê
khai
trước;
(ii)
các
khoản
chi
đầu
tư
và
chi
tiêu
dùng
có
giá
trị
lớn
với
mục
chi
và
giá
trị
cụ
thể
nhằm
đối
chiếu
với TSTN đã
kê
khai;
(iii)
sở
hữu
cổ
phần
tại
các
công
ty;
(iv)
vị
trí/chức
vụ,
tư
cách
thành
viên
hội
đồng
quản
trị
công
ty;
(iv)
quà
tặng
có
giá
trị;
(v)
các
lợi
ích
(vật
chất
và
phi
vật
chất)
khi
những
lợi
ích
đó
có
khả
năng
xung
đột
với
trách
nhiệm,
nghĩa
vụ
của
đối
tượng
kê
khai
trong
quá
trình
thi
hành
công
vụ;
Bổ
sung
quy
định
nghĩa
vụ
kê
khai TSTN sau
một
khoảng
thời
gian
(có
thể
từ
3-5
năm)
sau
khi
thôi
chức để phát
hiện
những
TSTN
bất
minh
mà
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
giấu
giếm
khi
đương
chức.
Cân
nhắc
thêm
việc
quy
định
kê
khai
bổ
sung
bởi khó
thực
hiện
trong
thực
tế,
do
những
trở
ngại
về
kỹ
thuật
(tính
hợp
lý
của
mốc
số
lượng
hay
tỷ
lệ
TSTN
tăng
thêm
được
xác
định
để
phải
khai
bổ
sung,
cách
tính
TSTN
tăng
thêm…)
[5];
-
Về
công
khai
bản
kê
khai
TSTN: Sửa
đổi
các
quy
định
có
liên
quan
để
cho
phép
người
dân
có
thể tiếp
cận
nội
dung
của
các
bản
kê
khai,
từ
đó
tăng
cường
sự giám
sát
của
các
cơ
quan
chức
năng
và
xã
hội với
việc
kê
khai,
công
khai
TSTN.
Tuy
nhiên,để
vừa
đảm
bảo
tính
công
khai,
minh
bạch
mà
vẫn
đảm
bảo
được
quyền
riêng
tư
của
đối
tượng
kê
khai,
có
thể
thực
hiện
việc
này
theo
một
trong
hai
phương
án
sau:
Phương
án 1: Vẫn
giữ
nguyên
các
quy
định
như
hiện
tại
nhưng
tạo
điều
kiện
cho
người
dân
giám
sát
tính
xác
thực
của
bản
kê
khai
thông
qua
việc
cho
phép
tiếp
cận
có
điều
kiện và
kiểm
soát
việc
sử
dụng
thông
tin
để
không
bị
lạm
dụng,
ảnh
hưởng
đến
người
kê
khai.
Căn
cứ
theo
Luật
Tiếp
cận
thông
tin,
có
thể
thiết
lập
một
cơ
chế
cung
cấp
thông
tin
về
bản
kê
khai TSTN nếu
công
dân
yêu
cầu
cung
cấp
thông
tin
trình
bày
được
lý
do
và
cam
kết
bảo
đảm
việc
sử
dụng
thông
tin
vào
mục
đích
phát
hiện
những
sai
phạm
hoặc
bất
minh
của
việc
kê
khai
và
phải
chịu
trách
nhiệm
về
động
cơ
của
mình;
cam
kết
không
sử
dụng
thông
tin
vào
mục
đích
thương
mại.
Phương
án 2: Quy
định
cơ
chế
công
khai
rộng
rãi
bản
kê
khai TSTN tới
công
chúng
(có
thể
trên
cổng
thông
tin
điện
tử
của
cơ
quan,
đơn
vị
công
tác)
nhưng
nghiên
cứu
phân
loại
nhóm
thông
tin
công
khai
trước
công
chúng
và
nhóm
thông
tin
bảo
mật.
Ví
dụ,
liên
quan
đến
những
bất
động
sản
được
liệt
kê
trong
bản
kê
khai TSTN,
có
thể
quy
định
chỉ
công
khai
trước
công
chúng
số
lượng
bất
động
sản,
diện
tích,
giá
trị,
nhưng
những
thông
tin
về
địa
chỉ
của
bất
động
sản,
số
tài
khoản
tại
ngân
hàng...
thì
được
bảo
mật.
- Về
việc
xác
minh
TSTN: Bổ
sung
quy
định
về
căn
cứ
xác
minh
TSTN
khi
có
dấu
hiệu
cho
thấy
một
người
có
mức
sống
không
tương
xứng
với
TSTN
được
kê
khai,
công
khai.
Đặc
biệt,
cần
đẩy
mạnh
áp
dụng
công
nghệ
thông
tin
vào
việc
kê
khai
và
quản
lý
kê
khai
TSTN
thông
qua
việc
xây
dựng
phần
mềm
cơ
sở
dữ
liệu
quốc
gia
vềTSTN theo
hướng
tích
hợp,
kết
nối
đa
ngành
cho
phép
kiểm
tra
chéo
để
nhận
diện
các
dấu
hiệu
bất
nhất,
bất
thường
trong
các
bản
kê
khai
giữa
các
kỳ
kê
khai.
-
Về
việc
xử
lý
TSTN
kê
khai
không
trung
thực,
TSTN
tăng
thêm
không
được
giải
trình
một
cách
hợp
lý: Cân
nhắc
hình
sự
hóa
hành
vi
làm
giàu
bất
chính,
theo
đó,
“người
có TSTN không
tương
xứng
với TSTN hợp
pháp
có
trách
nhiệm
giải
trình
về
nguồn
gốc
TSTN
của
mình”
để
giảm
tải
gánh
nặng
chứng
minh
cho
các
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng.
Sửa
đổi
các
quy
định
về chế
tài
áp
dụng
trong
trường
hợp
vi
phạm
các
quy
định
về
kê
khai,
minh
bạch
TSTN theo
hướng
quy
định
cụ
thể
các
loại
vi
phạm
về
kê
khai TSTN để
tùy
từng
tính
chất,
mức
độ
của
mỗi
loại
mà
áp
dụng
một
hoặc
đồng
thời
các
chế
tài
kỷ
luật,
hành
chính,
dân
sự,
hình
sự.
Đối
với
trường
hợp TSTN tăng
thêm
mà
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
không
giải
trình
được
hợp
lý
thì
cơ
quan
chức
năng
đánh
thuế
45%
đối
với
khối
TSTN
bất
minh;
cơ
quan
quản
lý
thuế
có
thẩm
quyền
xem
xét,
xử
lý
truy
thu
thuế
đối
với
những
khoản
thu
nhập
tăng
thêm
mà
không
kê
khai. Kiến
nghị
này
không
mâu
thuẫn
với
các
quy
định
hiện
hành
của
pháp
luật
hình
sự,
dân
sự
và
hạn
chế
ít
nhất
việc
phải
sửa
đổi
các
luật
có
liên
quan./.
[1]Việc
kiểm
soát
TSTN
còn
có
thể
được
thực
hiện
thông
qua
một
số
giải
pháp
mang
tính
bổ
trợ
khác
như:
hệ
thống
thuế
thu
nhập
cá
nhân,
phương
thức
thanh
toán
bằng
tài
khoản,
kiểm
soát
việc
nhận
và
trả
lại
quà
tặng
của
CBCC.
2] Hiện
nay,
thẩm
quyền
xác
minh
việc
kê
khai
TSTN
hiện
được
giao
cho
nhiều
cơ
quan,
đơn
vị
phụ
trách
công
tác
tổ
chức,
cán
bộ,
trong
khi
các
cơ
quan,
đơn
vị
này
không
đủ
điều
kiện
về
quyền
hạn,
nhân
lực,
nghiệp
vụ
để
thực
hiện.
Cụ
thể, Thanh
tra
Chính
phủ
không
quản
lý
trực
tiếp
các
đầu
mối
kê
khai
tài
sản
mà
việc
quản
lý
các
đầu
mối
kê
khai
tài
sản
còn
thông
qua
các
cấp
hành
chính
của
22
Bộ,
63
địa
phương,
8
cơ
quan
thuộc
Chính
phủ,
cơ
quan
Đảng,
Quốc hội
và
các
cơ
quan
tư
pháp.
3]Thanh
tra
Chính
phủ
(2017), Tổng
hợp
các
báo
cáo
chuyên
đề
tổng
kết
10
năm
thực
hiện
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng,
Công
tác
phát
hiện,
điều
tra
và
thi
hành
án
hình
sự
đối
với
tội
phạm
tham
nhũng
giai
đoạn
2005-2015.
[4] Thông
tư
số
08/VBHN-NHNN
ngày
21/5/2014
của
Ngân
hàng
Nhà
nước
Việt
Nam,
phần
II
mục
2
về
Cung
cấp
thông
tin.
[5]Vũ
Công
Giao
(2016),
Báo
cáo
kết
quả
nghiên
cứu
kinh
nghiệm
quốc
tế
về
kiểm
soát TSTN của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
và
khả
năng
áp
dụng
cho
Việt
Nam, GIG,
tr.85.
Bài
viết
được
đăng
tải
trên
Ấn
phẩm
Tạp
chí
Nghiên
cứu
Lập
pháp
số
11/2018.