Khái
niệm
“tài
sản”
có
nhiều
cách
hiểu
khác
nhau.
Theo
Đại
từ
điển
Tiếng
Việt,
“tài
sản
là
của
cải
vật
chất
dùng
để
sản
xuất
hoặc
tiêu
dùng”
[1],
còn
theo
Từ
điển
Luật
học,
“tài
sản
là
các
vật
có
giá
trị
bằng
tiền
và
là
đối
tượng
của
quyền
tài
sản
và
các
lợi
ích
vật
chất
khác”
[2].
Ngoài
ra,
trong
sách
Thuật
ngữ
pháp
lý
giải
thích
chi
tiết
hơn:
“Tài
sản
bao
gồm
vật
có
thực,
tiền,
giấy
tờ
trị
giá
được
bằng
tiền
và
các
quyền
về
tài
sản.
Tài
sản
có
hai
loại:
bất
động
sản
và
động
sản”
[3].
Về
mặt
pháp
lý,
theo
quy
định
của
Điều
105
Bộ
luật
Dân
sự
năm
2015
thì
“Tài
sản
là
vật,
tiền,
giấy
tờ
có
giá
và
quyền
tài
sản;
tài
sản
bao
gồm
bất
động
sản
và
động
sản.
Bất
động
sản
và
động
sản
có
thể
là
tài
sản
hiện
có
và
tài
sản
hình
thành
trong
tương
lai”.
Theo
khoản
1
Điều
3
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
năm
2018
(Luật
PCTN)
thì
“Tham
nhũng
là
hành
vi
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
đã
lợi
dụng
chức
vụ,
quyền
hạn
đó
vì
vụ
lợi”.
Kết
hợp
giữa
hai
khái
niệm
tài
sản
và
tham
nhũng,
khoản
3
Điều
3
Luật
PCTN
quy
định:
“Tài
sản
tham
nhũng
là
tài
sản
có
được
từ
tham
nhũng,
tài
sản
có
nguồn
gốc
từ
tham
nhũng”.
Tuy
nhiên,
trên
thực
tế,
khái
niệm
“tài
sản
tham
nhũng”
ở
Việt
Nam
còn
có
nhiều
cách
hiểu
khác
nhau.
Nếu
nhìn
nhận
dưới
góc
độ
quan
hệ
nhân
quả
thì
có
quan
điểm
cho
rằng,
tài
sản
tham
nhũng là
những
tài
sản
có
nguồn
gốc
phái
sinh,
là
kết
quả
của
hành
vi
tham
nhũng,
là tài
sản
trực
tiếp
có
được do
hành
vi
tham
nhũng
gây
ra,
bao
gồm
các
loại
tài
sản
có
được
từ
hành
vi
tham
nhũng
nhưng
đã
được
người
thực
hiện
hành
vi
tham
nhũng
và
người
khác
hợp
pháp
hóa
để
đầu
tư
trực
tiếp
vào
sản
xuất
kinh
doanh,
biến
“tiền
bẩn”
thành
“tiền
sạch”
(gọi
là
rửa
tiền),
hay
để
trả
các
khoản
nợ,
vay
cũ
tại
các
ngân
hàng,
các
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân;
kể
cả
dùng
vào
mục
đích
từ
thiện
như
xây
bệnh
viện,
trường
học,
đền
thờ,
miếu
mạo…
[4].
Quan
điểm
thứ
hai
cho
rằng,
tài
sản
tham
nhũng là
tài
sản
không
trực
tiếp
có
được
do
thực
hiện
các
hành
vi
bị
xem
là
tội
phạm
tham
nhũng
mà
có
được
do
lợi
dụng
chức
vụ,
quyền
hạn
hay
lạm
quyền
trong
khi
thi
hành
công
vụ
để
gây
ảnh
hưởng
đối
với
người
khác;
do
giả
mạo
trong
công
tác;
do
đưa
hối
lộ,
môi
giới
hối
lộ
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
để
giải
quyết
công
việc
của
cơ
quan,
tổ
chức,
địa
phương;
do
lợi
dụng
chức
vụ,
quyền
hạn
sử
dụng
trái
phép
tài
sản
của
nhà
nước[5].
Ở
Việt
Nam,
khái
niệm
về
tài
sản
tham
nhũng
vẫn
chưa
rõ
và
hẹp
hơn
so
với
quy
định
của
quốc
tế.
Cụ
thể,
theo
điểm
d
Điều
2
Công
ước
của
Liên
hợp
quốc
về
chống
tham
nhũng
(UNCAC)
[6],
tài
sản
(tài
sản
tham
nhũng)
được
định
nghĩa
là
“mọi
loại
tài
sản,
vật
chất
hay
phi
vật
chất,
động
sản
hay
bất
động
sản,
hữu
hình
hay
trừu
tượng,
và
các
văn
bản
pháp
lý
hay
giấy
tờ
chứng
minh
quyền
sở
hữu
hoặc
lợi
ích
đối
với
tài
sản
đó”.
Ngoài
ra,
theo
Điều
31
của
UNCAC
thì
tài
sản
tham
nhũng
là “những
tài
sản
có
nguồn
gốc
từ
tội
phạm
được
quy
định
theo
Công
ước
này
hoặc
tài
sản
có
giá
trị
tương
đương
với
giá
trị
của
tài
sản
do
phạm
tội
mà
có”
(khoản
1(a))
và
“tài
sản,
trang
thiết
bị
hay
công
cụ
khác
được
sử
dụng
hoặc
sẽ
được
sử
dụng
để
thực
hiện
hành
vi
phạm
tội
theo
quy
định
của
Công
ước
này”
(khoản
1(b)).
Bên
cạnh
đó,
tại
khoản
6
Điều
31
cũng
quy
định
tài
sản
tham
nhũng
là
“thu
nhập
hoặc
những
lợi
ích
khác
có
được
từ
tài
sản
do
phạm
tội
mà
có,
từ
tài
sản
được
biến
đổi
hoặc
chuyển
đổi
từ
tài
sản
do
phạm
tội
mà
có
hoặc
từ
tài
sản
mà
trong
đó
lẫn
lộn
một
phần
là
tài
sản
do
phạm
tội
mà
có…”.
Như
vậy,
theo
các
quy
định
này
của
UNCAC
thì
tài
sản
tham
nhũng
có
thể
là
hữu
hình
hoặc
vô
hình,
có
được
một
cách
trực
tiếp
từ
hành
vi
tham
nhũng,
hoặc
gián
tiếp
thông
qua
hành
vi
rửa
tiền
tham
nhũng.
Để
phù
hợp
hơn
với
những
quy
định
của
Luật
quốc
tế,
Luật
PCTN
cần
sửa
đổi
theo
hướng
phân
định
rạch
ròi
giữa
tài
sản
trực
tiếp
có
được
từ
hành
vi
tham
nhũng
(tham
ô,
nhận
hối
lộ)
với
tài
sản
có
được
từ
hành
vi
tham
nhũng
nhưng
không
trực
tiếp
(môi
giới
cho
hành
vi
hối
lộ).
2.
Bất
cập
trong
xử
lý
tài
sản
tham
nhũng
và
một
số
kiến
nghị
Khái
niệm
“
Xử
lý
tài
sản
tham
nhũng”,
xét
ở
khía
cạnh
ngôn
ngữ
học
thì
cụm
từ
“xử
lý”
được
hiểu
là
việc
“xem
xét,
giải
quyết
một
vụ
việc
nào
đó”
[7].
Mặt
khác,
từ
khái
niệm
“tài
sản
tham
nhũng”
đã
nêu
trên,
có
thể
khẳng
định
rằng
“xử
lý
tài
sản
tham
nhũng”
được
hiểu
là
việc
xem
xét,
giải
quyết
các
tài
sản
có
được
từ
hành
vi
tham
nhũng.
Hay
nói
cách
khác,
có
thể
nhìn
nhận
là
việc
thu
hồi,
trả
lại
những
tài
sản
bị
hành
vi
tham
nhũng
chiếm
hữu
một
cách
bất
hợp
pháp
cho
chủ
sở
hữu,
người
quản
lý
hợp
pháp
của
những
tài
sản
đó.
Điều
91
Luật
PCTN
có
quy
địnhhợp
tác
quốc
tế
về
xử
lý
tài
sản
tham
nhũng
là
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
trên
cơ
sở
Điều
ước
quốc
tế
mà
nước
Cộng
hòa
xã
hội
chủ
nghĩa
Việt
Nam
là
thành
viên
và
phù
hợp
với
các
nguyên
tắc
cơ
bản
của
pháp
luật
Việt
Nam,
các
cơ
quan
có
thẩm
quyền
của
Việt
Nam
hợp
tác
với
các
cơ
quan
có
thẩm
quyền
của
nước
ngoài
trong
việc
kê
biên
tài
sản,
phong
tỏa
tài
khoản,
tịch
thu
hoặc
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
và
trả
lại
tài
sản
đó
cho
chủ
sở
hữu,
người
quản
lý
hợp
pháp.
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
tối
cao
là
cơ
quan
trung
ương
về
hợp
tác
quốc
tế
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
trong
tố
tụng
hình
sự;
tiếp
nhận,
xử
lý
yêu
cầu
tương
trợ
tư
pháp
hình
sự
của
nước
ngoài
về
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
và
đề
nghị
nước
ngoài
thực
hiện
yêu
cầu
tương
trợ
tư
pháp
hình
sự
về
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
của
Việt
Nam.
Thanh
tra
Chính
phủ,
Bộ
Tư
pháp,
Bộ
Ngoại
giao
và
cơ
quan
nhà
nước
có
liên
quan,
trong
phạm
vi
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
của
mình,
có
trách
nhiệm
phối
hợp
với
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
tối
cao
trong
hợp
tác
quốc
tế
về
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng.
“Xử
lý
tài
sản
tham
nhũng”
còn
được
quy
định
tại
khoản
1
Điều
93
Luật
PCTN,
theo
đó:
“Tài
sản
tham
nhũng
phải
được
thu
hồi,
trả
lại
cho
chủ
sở
hữu,
người
quản
lý
hợp
pháp
hoặc
tịch
thu
theo
quy
định
của
pháp
luật”
đối
với
thiệt
hại
phát
sinh
do
hành
vi
tham
nhũng
gây
ra.
Đồng
thời,
Luật
PCTN
cũng
ghi
nhận
tại
khoản
2
Điều
93:
“Thiệt
hại
do
hành
vi
tham
nhũng
gây
ra
phải
được
khắc
phục;
người
có
hành
vi
tham
nhũng
gây
thiệt
hại
phải
bồi
thường
theo
quy
định
của
pháp
luật”.
Từ
những
quy
định
này,
có
thể
nhận
thấy,
chế
định
về
xử
lý
tài
sản
tham
nhũng
có
những
điểm
bất
cập
sau:
Thứ
nhất, bất
cập
trong
khái
niệm
tài
sản
tham
nhũng.
Như
đã
phân
tích
trên,
do
chưa
có
sự
thống
nhất
về
khái
niệm
tài
sản
tham
nhũng nên
việc
phát
hiện,
điều
tra
và
xác
định
tài
sản
tham
nhũng
đã
bị
chiếm
đoạt,
cất
giấu,
hợp
pháp
hóa
hoặc
việc
điều
tra,
xác
định
thiệt
hại
do
tội
phạm
về
tham
nhũng
còn
nhiều
khó
khăn. Một
trong
những
nguyên
nhân
là
do
sự
khác
biệt
về
ý
chí
của
từng
cơ
quan
điều
tra
cụ
thể
dẫn
đến
việc
xác
minh
các
tài
sản
tham
nhũng
trong
vụ
án
chưa
được
đầy
đủ
so
với
thực
tế
[8].
Do
đó,
theo
nhóm
tác
giả,
trước
hết
cần
phải
có
văn
bản
hướng
dẫn
chi
tiết
về
tài
sản
tham
nhũng
và
những
đặc
điểm
để
nhận
diện
loại
tài
sản
này.
Thứ
hai, về
vấn
đề
khắc
phục,
bồi
thường
thiệt
hại
do
hành
vi
tham
nhũng
gây
ra.
Luật
PCTN
quy
định
việc
khắc
phục,
bồi
thường
thiệt
hại
do
hành
vi
tham
nhũng
gây
ra
cũng
được
đồng
thời
quy
định
trong
nội
dung
về
xử
lý
tài
sản
tham
nhũng. Chế
định
xử
lý
tài
sản
tham
nhũng
tại
Điều
93
Luật
PCTN
dường
như
chỉ
đóng
vai
trò
định
hướng
áp
dụng
chứ
chưa
thật
sự
đi
sâu
vào
những
khía
cạnh
cụ
thể
của
việc
xử
lý
tài
sản
tham
nhũng.
Luật
PCTN
dường
như
chỉ
đóng
vai
trò
là
“vẽ
lên”
nguyên
tắc,
thiếu
những
quy
định
thực
thi
cụ
thể
[9].
Theo
nhóm
tác
giả,
cách
quy
định
này
là
chưa
hợp
lý
vì
nếu
xem
xử
lý
tài
sản
tham
nhũng
là
việc
thu
hồi,
trả
lại
những
tài
sản
bị
tham
những
cho
chủ
sở
hữu,
người
quản
lý
hợp
pháp thì
xử
lý
tài
sản
tham
nhũng sẽ
không
bao
hàm
khắc
phục,
bồi
thường
thiệt
hại
do
hành
vi
tham
nhũng
gây
ra do việc
khắc
phục,
bồi
thường
thiệt
hại
chỉ
là
một
trong
những
hệ
quả
được
phái
sinh
từ
việc
thực
hiện
hành
vi
tham
nhũng. Hay
nói
cách
khác,
nghĩa
vụ
khắc
phục,
bồi
thường
thiệt
hại
chỉ
là
một
nghĩa
vụ
phụ,
có
thể
có
hoặc
không
có
trong
từng
vụ
việc
cụ
thể.
Do
đó,
nên
chăng
Luật
PCTN
cần
quy
định
rõ
về
xử
lý
tài
sản
tham
nhũng và
khắc
phục,
bồi
thường
thiệt
hại
do
tham
nhũng gây
ra
theo
hướng
quy
định
khắc
phục,
bồi
thường
thiệt
hại thành
một
chương
riêng bao
gồm
xác
định
mức
độ
thiệt
hại,
trình
tự
thủ
tục
do
các
chủ
thể
có
thẩm
quyền
tiến
hành
xử
lý,
thẩm
quyền
xử
lý
đối
với
các
loại
tài
sản
trong
lĩnh
vực
cụ
thể
là
dân
sự,
hình
sự,
hành
chính chứ
không
nên
gộp
vào
khoản
2
của
Điều
93
về
xử
lý
tài
sản
tham
nhũng.
Thứ
ba, vấn
đề
khấu
trừ
chi
phí
cho
việc
xử
lý
tài
sản
tham
nhũng.
Luật
PCTN
chưa
ghi
nhận
việc
khấu
trừ
chi
phí
trong
quá
trình
xử
lý
tài
sản
tham
nhũng.
Trên
thực
tế,
việc
các
chủ
thể
thực
hiện
các
hành
vi,
giao
dịch
nhằm
tẩu
tán,
“hợp
pháp
hóa”
tài
sản
có
được
do
hành
vi
tham
nhũng
ngày
càng
diễn
biến
theo
hướng
tinh
vi,
khó
phát
hiện
hơn,
kéo
theo
việc
xác
minh,
điều
tra,
xử
lý
những
loại
tài
sản
này
cũng
ngày
càng
khó
khăn,
phức
tạp
hơn.
Do
vậy,
theo
nhóm
tác
giả,
Luật
PCTN
thiếu
quy
định
về
khấu
trừ
chi
phí
cũng
là
bất
cập
của
chế
định
xử
lý
tài
sản
tham
nhũng.
Đối
chiếu
với
Luật
quốc
tế,
theo
khoản
2
Điều
57
của
Công
ước
về
chống
tham
nhũng
năm
2003
của
Liên
hợp
quốc
thì
“Khấu
trừ
chi
phí
cho
việc
xử
lý
tài
sản
tham
nhũng
được
áp
dụng
khi
thích
hợp,
trừ
trường
hợp
các
quốc
gia
thành
viên
quyết
định
khác,
quốc
gia
được
yêu
cầu
có
thể
khấu
trừ
các
chi
phí
hợp
lý
phát
sinh
trong
quá
trình
điều
tra,
truy
tố
và
xét
xử
để
dẫn
đến
việc
trả
lại
hay
định
đoạt
tài
sản
bị
tịch
thu
theo
Điều
này”.
Từ
quy
định
này,
mặc
dù
có
một
số
điểm
khác
biệt
ở
khía
cạnh
chủ
thể
áp
dụng
[10] nhưng
có
thể
làm
cơ
sở
hoàn
hiện
pháp
luật
Việt
Nam
về
xử
lý
tài
sản
tham
nhũng.
Thứ
tư, về
quy
trình
xử
lý
tài
sản
tham
nhũng.
Luật
PCTN
chưa
ghi
nhận
quy
trình
xử
lý
tài
sản
tham
nhũng.
Theo
nhóm
tác
giả,
cần
thiết
ban
hành
một
quy
trình
xử
lý
tài
sản
tham
nhũng
để
đảm
bảo
việc
xử
lý
tài
sản
tham
nhũng
được
diễn
ra
nhanh
chóng,
hiệu
quả.
Đối
chiếu
quy
trình
xử
lý
tài
sản
tham
nhũng
ở
một
số
quốc
gia
trên
thế
giới,
theo
quy
định
của
pháp
luật
Úc
[11] thì
các
trường
hợp,
quy
trình
xử
lý
tài
sản
tham
nhũng
được
quy
định
như
sau:
(i) điều
tra
hành
vi
trái
pháp
luật
và
xác
định
tài
sản;
(ii)
thu
giữ
tài
sản
thông
qua
lệnh
của
Tòa
án
trong
khi
chờ
đợi
kết
quả
các
thủ
tục
tố
tụng
pháp
lý;
(iii)
tịch
biên
hoặc
tịch
thu
tài
sản;
(iv)
tiến
hành
thanh
lý
tài
sản
đã
bị
tịch
thu. Từ
đó
, Luật
PCTNcần
thiết
quy
định
về
khám
xét
điện
tử,
thu
thập
thông
tin
từ
các
nguồn
thông
tin
công
cộng,
nhân
chứng,
bảo
quản
tài
sản,
tố
tụng
tại
Tòa
án
có
thể
tịch
thu
hình
sự
hoặc
tịch
thu
không
dựa
trên
phán
quyết
của
Tòa
án,
tìm
kiếm
bằng
chứng
chứng
minh
mối
quan
hệ
giữa
tài
sản
và
hành
vi
phạm
tội
hoặc
chứng
minh
có
được
từ
hành
vi
phạm
tội,
thu
hồi
tài
sản
thông
qua
hình
thức
kết
án,
thu
hồi
tài
sản
thông
qua
hình
thức
kết
tội,
thu
hồi
tài
sản
thông
qua
thủ
tục
hành
chính,
thu
hồi
tài
sản
thông
qua
thủ
tục
dân
sự[12]. Mục
6
Chương
2
Luật
PCTN
cần
bổ
sung
quy
trình
tịch
thu
tài
sản
đối
với
người
có
tài
sản
tăng
lên
bất
thường
và
bị
tình
nghi
có
hành
vi
tham
nhũng
hoặc
liên
quan
tới
tham
nhũng
không
chứng
minh
được
nguồn
gốc
tài
sản.
Thứ
năm,
đối
chiếu
với
các
văn
bản
quy
phạm
pháp
luật
liên
quan
đến
xử
lý
tài
sản
tham
nhũng,
Bộ
luật
Hình
sự
năm
2015
đã
được
sửa
đổi,
bổ
sung
2017
(Bộ
luật
Hình
sự)
quy
định
về
thu
hồi
tài
sản
nói
chung,
trong
đó
có
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng.
Điều
này
được
thể
hiện
ở
các
quy
định
về
áp
dụng
hình
phạt
tiền
[13],
tịch
thu
tài
sản
và
các
biện
pháp
tư
pháp
đối
với
người
phạm
tội,
trong
đó
có
cả
phạm
tội
do
hành
vi
tham
nhũng
gây
ra
[14].
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
năm
2015
không
quy
định
về
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng,
việc
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
được
áp
dụng
như
đối
với
các
trường
hợp
thu
hồi
tài
sản
khác.
Trong
trường
hợp
bị
can,
bị
cáo
phạm
tội
được
quy
định
trong
Bộ
luật
Hình
sự
có
thể
bị
tịch
thu
tài
sản
hoặc
phạt
tiền,
người
phải
chịu
trách
nhiệm
bồi
thường
thiệt
hại
thì
các
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
thực
hiện
việc
kê
biên
tài
sản,
phong
tỏa
tài
sản
[15].
Đây
là
biện
pháp
nhằm
bảo
đảm
cho
việc
thi
hành
các
quyết
định
của
Tòa
án
về
phạt
tiền,
tịch
thu
tài
sản,
buộc
bồi
thường
thiệt
hại
trong
các
vụ
án
hình
sự
nói
chung
(vụ
án
tham
nhũng
nói
riêng)
[16].
Bộ
luật
Dân
sự
năm
2015
cũng
không
quy
định
về
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng.
Tuy
nhiên,
Bộ
luật
này
quy
định
về
xác
lập,
thực
hiện
và
bảo
vệ
quyền
dân
sự
đối
với
tài
sản,
xác
định
quyền
của
chủ
sở
hữu,
chiếm
hữu
tài
sản,
sử
dụng
tài
sản,
được
lợi
về
tài
sản
không
có
căn
cứ
pháp
luật,
quyền
nhân
thân
không
gắn
với
tài
sản
và
quyền
nhân
thân
gắn
với
tài
sản,
quyền
sở
hữu,
quyền
thừa
kế
và
quyền
khác
đối
với
tài
sản
[17].
Như
vậy,
trong
trường
hợp
tài
sản
bị
chiếm
đoạt
bất
hợp
pháp,
bị
thiệt
hại
do
hành
vi
tham
nhũng
gây
ra
thì
chủ
sở
hữu
có
quyền
áp
dụng
các
quy
định
của
Bộ
luật
Dân
sự
để
yêu
cầu
các
cơ
quan
có
thẩm
quyền
đòi
lại
các
tài
sản
đó
và
đưa
ra
yêu
cầu
bồi
thường
thiệt
hại
[18].
Bộ
luật
Tố
tụng
dân
sự
năm
2015
không
quy
định
về
tài
sản
tham
nhũng
mà
quy
định
trình
tự,
thẩm
quyền
của
các
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
trong
việc
xử
lý
các
tài
sản
trong
vụ
án
dân
sự;
áp
dụng
các
biện
pháp
khẩn
cấp
tạm
thời
trong
tố
tụng
dân
sự.
Đồng
thời,
quy
định
này
có
thể
áp
dụng
trong
việc
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
[19].
Luật
Thi
hành
án
dân
sự
năm
2008
đã
được
sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2014
(Luật
Thi
hành
án
dân
sự)
cũng
không
quy
định
về
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng.
Việc
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
trong
thi
hành
án
dân
sự
được
thực
hiện
như
các
trường
hợp
thi
hành
án
thu
hồi
tiền
hay
tài
sản
khác.
Điển
hình
là
thi
hành
bản
án,
quyết
định
của
Tòa
án
về
dân
sự,
hình
phạt
tiền,
tịch
thu
tài
sản,
truy
thu
tiền,
tài
sản
thu
lợi
bất
chính,
xử
lý
vật
chứng,
tài
sản,
án
phí
và
quyết
định
dân
sự
trong
bản
án,
quyết
định
về
vụ
án
hình
sự
[20].
Thứ
sáu, về
thẩm
quyền
xác
minh
nguồn
gốc
tài
sản.
Vấn
đề
này
được
Luật
PCTN
ghi
nhận
ở
Điều
30,
Điều
42
và
Điều
46,
đồng
thời
còn
được
hướng
dẫn
tại
Điều
19
Nghị
định
số
130/2020/NĐ-CP
về
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
của
người
có
chức
vụ,
quyền
hạn
trong
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị. Theo
đó,
thẩm
quyền
xác
minh
nguồn
gốc
tài
sản
thuộc
về
Tổ
xác
minh
tài
sản,
thu
nhập
được
thành
lập
cùng
với
việc
ra
quyết
định
xác
minh
tài
sản,
thu
nhập.
Việc
xác
minh
này
được
thực
hiện
bởi
các
chủ
thể
là
Thanh
tra
Chính
phủ,
Thanh
tra
tỉnh,
Cơ
quan
giúp
Ủy
ban
Thường
vụ
Quốc
hội,
Bộ,
cơ
quan
ngang
Bộ,
cơ
quan
thuộc
Chính
phủ,
Văn
phòng
Quốc
hội.
Văn
phòng
Chủ
tịch
nước,
Tòa
án
nhân
dân
tối
cao,
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
tối
cao,
Kiểm
toán
nhà
nước,
Cơ
quan
có
thẩm
quyền
của
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam,
cơ
quan
trung
ương
của
các
tổ
chức
chính
trị
-
xã
hội
[21].
Tòa
án
nhân
dân
có
thẩm
quyền
kiểm
soát
tài
sản,
thu
nhập
của
người
có
nghĩa
vụ
kê
khai
công
tác
tại
Tòa
án
nhân
dân.
Tham
khảo
quy
định
từ
pháp
luật
Indonesia,
Điều
38
Luật
Xóa
bỏ
tham
nhũng
Indonesia
quy
định
về
việc
Tòa
án
có
thẩm
quyền
xác
minh
tài
sản,
có
mọi
quyền
ra
lệnh
tịch
thu
tài
sản.
Để
tạo
điều
kiện
cho
việc
thực
thi
quy
định
này
trên
thực
tế,
Luật
Xóa
bỏ
tham
nhũng
của
Indonesia
quy
định
chủ
tọa
của
phiên
tòa
phải
mở
một
phiên
tòa
đặc
biệt
nhằm
xem
xét
tính
hợp
pháp
của
những
tài
sản
được
xác
minh
[22].
Theo
nhóm
tác
giả,
để
công
tác
xét
xử
trên
thực
tế
diễn
ra
được
nhanh
chóng,
hiệu
quả,
pháp
luật
Việt
Nam
nên
có
sự
ghi
nhận
về
vai
trò
của
Tòa
án
trong
việc
xác
minh
nguồn
gốc
của
tài
sản,
nếu
cần
thiết
có
thể
mở
phiên
họp
để
phục
vụ
công
tác
xác
minh
tài
sản
của
đối
tượng
bị
xác
minh
tài
sản./.
[1] Đại
học
Quốc
gia
thành
phố
Hồ
Chí
Minh
(2008),
Đại
từ
điển
Tiếng
Việt,
tr.1417.
[2] Nxb.
Từ
điển
Bách
Khoa
(2006)
,
Từ
điển
Luật
học, Nxb.
Tư
pháp
Hà
Nội;
tr.685.
[3] Nguyễn
Mạnh
Hùng
(2011),
Thuật
ngữ
pháp
lý,
Nxb.
Chính
trị
quốc
gia
Hà
Nội,
tr.384.
[4] Vũ
Công
Giao,
Vũ
Thành
Cự,
Phạm
Thị
Yến
(2021),
Thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
ở
Việt
Nam,
Nghiên
cứu
Lập
pháp
số
(07),
tr.16.
[6] https://www.unodc.org/unodc/en/corruption/tools_and_publications/UN-convention-against-corruption.html.
[8] Trương
Minh
Mạnh,
Đỗ
Thành
Trường
(2015),
Giải
pháp
nâng
cao
hiệu
quả
công
tác
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng, Tạp
chí
Kiểm
sát
(24).
[9] Bùi
Thị
Minh
Trang
(2016),
So
sánh
quy
định
vể
xử
lý
tham
nhũng
trong
pháp
luật
của
một
số
quốc
gia
châu
Á
và
đề
xuất
sửa
đổi
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
của
Việt
Nam,
Nghiên
cứu
so
sánh
pháp
luật
phòng,
chống
tham
nhũng
của
một
số
quốc
gia
châu
Á
đáp
ứng
yêu
cầu
sửa
đổi
những
vấn
đề
trọng
tâm
của
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
Việt
Nam,
Trường
Đại
học
Luật
Hà
Nội,
tr.
178.
[10] Công
ước
Phòng,
chống
tham
nhũng
năm
2003
của
Liên
hợp
quốc
chủ
yếu
điều
chỉnh
quan
hệ
giữa
các
chủ
thể
là
quốc
gia
với
nhau;
còn
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
của
Việt
Nam
thì
điều
chỉnh
việc
xử
lý
tài
sản
tham
nhũng
dưới
góc
độ
một
chủ
thể
là
cơ
quan
quyền
lực
nhà
nước,
chủ
thể
khác
trong
quan
hệ
là
một
chủ
thể
thực
hiện
hành
vi
phạm
tội.
[11] Kỳ
Sơn
(2016),
Kinh
nghiệm
của
Australia
về
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng, Tạp
chí
Kiểm
sát
(02),
tr.
58.
[12] Lê
Tiến
Sinh
(2021),
Kinh
nghiệm
một
số
nước
về
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng,
Tạp
chí
Kiểm
sát
(10),
tr.57.
[13] Điều
35,
Điều
46,
Điều
47,
Điều
48
Bộ
luật
Hình
sự.
Tịch
thu
tài
sản
là
tước
một
phần
hoặc
toàn
bộ
tài
sản
thuộc
sở
hữu
của
người
bị
kết
án
để
nộp
vào
ngân
sách
nhà
nước.
Tịch
thu
tài
sản
chỉ
được
áp
dụng
đối
với
người
bị
kết
án
về
tội
phạm
nghiêm
trọng,
tội
phạm
rất
nghiêm
trọng
hoặc
tội
phạm
đặc
biệt
nghiêm
trọng
xâm
phạm
an
ninh
quốc
gia,
tội
phạm
về
ma
túy,
tham
nhũng
hoặc
tội
phạm
khác
do
Bộ
luật
này
quy
định.
Khi
tịch
thu
toàn
bộ
tài
sản
vẫn
để
cho
người
bị
kết
án
và
gia
đình
họ
có
điều
kiện
sinh
sống.
[16] Điều
37,
Điều
125,
Điều
128,
Điều
129,
Điều
262,
Điều
368,
Điều
437,
Điều
438
Bộ
luật
Tố
tụng
Hình
sự.
[17] Chương
III,
VII,
XIII,
XI
Bộ
luật
Dân
sự
năm
2015.
[19] Chương
III,
Chương
VII,
Chương
XIII
Bộ
luật
Tố
tụng
Dân
sự.
[20] Điều
7,
Điều
20,
Điều
21,
Điều
35,
Điều
36,
Điều
39,
Điều
44
–
Văn
bản
hợp
nhất
Luật
Thi
hành
án
Dân
sự
số
13/VBHN-VPQH
ngày
29/6/2018.
[22] Yosheph
Suardi
Sabda,
Legal
Obstacles
to
Effective
Law
Enforcement
in
Corruption
Cases,
Asset
recovery
and
mutual
legal
assistance
in
Asia
and
The
Pacific,
Proceedings
of
the
6th
Regional
Seminar
on
Making
International
Anti-Corruption
Standards
Operational,
tr.
237.