Tóm
tắt:
Khi
Nhà
nước
thu
hồi
đất
mà
người
có
đất
bị
thu
hồi
bị
ảnh
hưởng
chỗ
ở
hợp
pháp
thì
có
thể
được
xem
xét
tái
định
cư.
Tuy
nhiên,
quy
định
của
pháp
luật
hiện
hành
lại
chưa
quy
định
rõ
tiêu
chí
để
xác
định
đối
tượng
chủ
thể,
điều
kiện
loại
đất
bị
thu
hồi,
điều
kiện
khu
tái
định
cư,
vấn
đề
hậu
tái
định
cư…
do
đó
đã
gây
rất
nhiều
khó
khăn
trong
việc
áp
dụng
pháp
luật
trên
thực
tế.
Trong
bài
viết
này,
tác
giả
phân
tích
những
điểm
chưa
hợp
lý
trong
quy
định
của
pháp
luật
hiện
hành
về
tái
định
cư,
so
sánh
với
Dự
thảo
Luật
Đất
đai
(sửa
đổi)
và
kiến
nghị
các
giải
pháp
hoàn
thiện.
1. Khái
niệm
về
tái
định
cư
Mặc
dù
chế
định
Nhà
nước
thu
hồi
đất
(THĐ)
vì
mục
đích
quốc
phòng,
an
ninh,
lợi
ích
quốc
gia,
lợi
ích
công
cộng
đã
có
từ
giai
đoạn
Luật
Đất
đai
năm
1993,
nhưng
cho
đến
thời
điểm
hiện
tại
vẫn
chưa
có
văn
bản
quy
phạm
pháp
luật
nào
(kể
cả
Luật
Đất
đai
năm
2013
và
các
văn
bản
hướng
dẫn
thi
hành
luật
này)
định
nghĩa
thế
nào
là
“tái
định
cư”
khi
Nhà
nước
THĐ.
Theo
Từ
điển
tiếng
Việt
: “tái”
là
lần
thứ
hai,
lại
một
lần
nữa, “định
cư”
là
ở
một
nơi
nhất
định
để
sinh
sống,
làm
ăn[1].
Theo
thuật
ngữ
được
đưa
ra
tại
Khung
chính
sách
tái
định
cư
(RPF)
thì
tái
định
cư bao
hàm
tất
cả
những
thiệt
hại
trực
tiếp
về
kinh
tế
và
xã
hội
gây
ra
bởi
việc
THĐ
và
hạn
chế
sự
tiếp
cận,
cùng
với
những
biện
pháp
đền
bù
và
sửa
chữa.
Tái
định
cư
không
hạn
chế
sự
di
dời
về
mặt
vật
chất.
Tái
định
cư
có
thể
tùy
thuộc
vào
từng
trường
hợp
cụ
thể,
bao
gồm:
(i)
THĐ
và
các
công
trình
trên
đất,
bao
gồm
cả
việc
kinh
doanh,
buôn
bán;
(ii)
Sự
di
dời
về
mặt
vật
chất;
và
(iii)
Sự
khôi
phục
kinh
tế
của
những
người
bị
ảnh
hưởng
nhằm
cải
thiện
hoặc
ít
nhất
là
phục
hồi
thu
nhập
và
mức
sống
[2].
Trên
cơ
sở
tổng
hợp
các
quy
định
nội
dung
điều
chỉnh
về
vấn
đề
tái
định
cư
khi
Nhà
nước
THĐ,
có
thể
hiểu:
“
Tái
định
cư
khi
Nhà
nước
THĐ
được
áp
dụng
khi
hộ
gia
đình,
cá
nhân,
người
Việt
Nam
định
cư
ở
nước
ngoài
bị
THĐ
ở
hợp
pháp
mà
phải
di
chuyển
chỗ
ở
và
không
còn
chỗ
ở
nào
khác
trên
địa
bàn
cấp
xã
nơi
có
đất
ở
bị
thu
hồi
thì
được
bố
trí
tái
định
cư
bằng
việc
giao
đất
ở,
nhà
ở
hoặc
bằng
tiền”.
Tái
định
cư
được
hiểu
theo
nghĩa
hẹp
là
sự
bố
trí
lại
chỗ
ở
mới
hoặc
tại
nơi
ở
cũ
trong
trường
hợp
dự
án
chỉnh
trang
đô
thị,
khu
dân
cư
cho
các
hộ
gia
đình,
cá
nhân
bị
THĐ
mà
phải
di
chuyển
chỗ
ở.
Ngoài
ra,một
vấn
đề
cần
lưu
ý
làtái
định
cư
được
chia
thành
ba
trường
hợp:
tái
định
cư, hỗ
trợ
tái
định
cư và
xét
mua
nền
tái
định
cư.
Tái
định
cư khi
Nhà
nước
THĐ
ở
là
việc
giao
đất
ở,
nhà
ở
hoặc
bằng
tiền.
Hỗ
trợ
tái
định
cư được
áp
dụng
trong
trường
hợp
sau
khi
tiền
bồi
thường
về
đất
nhỏ
hơn
giá
trị
một
suất
tái
định
cư
tối
thiểu
thì
được
hỗ
trợ
khoản
chênh
lệch
đó
[3].
Xét
mua
nền
tái
định
cư
được
áp
dụng
trong
trường
hợp: Nếu
gia
đình
có
nhiều
thế
hệ,
nhiều
cặp
vợ
chồng
cùng
chung
sống
và
đủ
điều
kiện
tách
hộ
thì
những
hộ
phụ
sẽ
được
xem
xét
cho
mua
một
nền
tái
định
cư
với
diện
tích
tối
thiểu
[4].
Ngoài
ra,
để
cụ
thể
hóa
quy
định
tại
khoản
4
Điều
6
Nghị
định
số
47/2014/NĐ-CP
quy
định
về
bồi
thường,
hỗ
trợ,
tái
định
cư
khi
Nhà
nước
thu
hồi
đất
(Nghị
định
số
47/2014/NĐ-CP),
các
địa
phương
còn
quy
định
trường
hợp
khi
bị
THĐ
gắn
với
nhà
ở
mà
người
bị
THĐ
không
đủ
điều
kiện
bồi
thường
về
đất
ở
và
phải
di
chuyển
chỗ
ở
và
không
còn
chỗ
ở
nào
khác
trên
địa
bàn
cấp
xã
nơi
bị
THĐ
thì
hộ
gia
đình,
cá
nhân
đó
được
xét
mua
một
nền
tái
định
cư
với
diện
tích
tối
thiểu
[5].
2.
Điều
kiện tái
định
cư
khi Nhà
nước
thu
hồi
đất theo
quy
định
của
pháp
luật
hiện
hành
Theo
quy
định
tại
khoản
1
Điều
6
Nghị
định
số
47/2014/NĐ-CP,
hộ
gia
đình,
cá
nhân
đang
sử
dụng
đất
ở,
người
Việt
Nam
định
cư
ở
nước
ngoài
đang
sở
hữu
nhà
ở
gắn
liền
với
quyền
sử
dụng
đất
(QSDĐ)
tại
Việt
Nam
khi
Nhà
nước
THĐ
ở
mà
có
Giấy
chứng
nhận
QSDĐ
hoặc
đủ
điều
kiện
để
được
cấp
Giấy
chứng
nhận
QSDĐ,
quyền
sở
hữu
nhà
ở
và
tài
sản
khác
gắn
liền
với
đất
theo
quy
định
của
pháp
luật
về
đất
đai
nếu
thuộc
trường
hợp
thu
hồi
hết
đất
ở
hoặc
phần
diện
tích
đất
ở
còn
lại
sau
thu
hồi
không
đủ
điều
kiện
để
ở
theo
quy
định
của
Ủy
ban
nhân
dân
(UBND)
cấp
tỉnh
mà
hộ
gia
đình,
cá
nhân
không
còn
đất
ở,
nhà
ở
nào
khác
trong
địa
bàn
xã,
phường,
thị
trấn
nơi
có
đất
ở
thu
hồi
thì
được
bồi
thường
bằng
đất
ở
hoặc
nhà
ở
tái
định
cư.
Nếu
hộ
gia
đình,
cá
nhân,
người
Việt
Nam
định
cư
ở
nước
ngoài
thuộc
các
trường
hợp
nêu
trên
mà
không
có
nhu
cầu
bồi
thường
bằng
đất
ở
hoặc
bằng
nhà
ở
tái
định
cư
thì
được
Nhà
nước
bồi
thường
bằng
tiền
[6].
Như
vậy,
điều
kiện
để
hộ
gia
đình,
cá
nhân
bị
Nhà
nước
THĐ
được
giao
đất
hoặc
nhà
ở
tái
định
cư
phải
thỏa
mãn
những
điều
kiện
sau:
Một
là,
đất
bị
thu
hồi
phải
là
đất
ở
hợp
pháp,
nghĩa
là
trên
Giấy
chứng
nhận
QSDĐ
phải
thể
hiện
diện
tích
đất
đó
là
đất
ở
(ODT
hoặc
ONT);
hoặc
thửa
đất
đó
phải
đủ
điều
kiện
để
được
công
nhận
là
đất
ở
theo
quy
định
của
pháp
luật
về
đất
đai.
Hai
là,
người
bị
THĐ
phải
thuộc
trường
hợp
di
chuyển
chỗ
ở.
Song
song
với
điều
kiện
thứ
nhất
là
đất
bị
thu
hồi
phải
là
đất
ở,
thì
điều
kiện
này
yêu
cầu
trên
thửa
đất
đó
phải
có
nhà
ở,
người
bị
THĐ
phải
đang
sinh
sống
trên
ngôi
nhà
đó.
“Di
chuyển
chỗ
ở”
được
hiểu
rằng,
người
bị
THĐ
bị
ảnh
hưởng
luôn
cả
nhà
ở
và
trên
thực
tế
chỉ
khi
toàn
bộ
căn
nhà
đều
bị
thiệt
hại
hoặc
không
bị
thiệt
hại
toàn
bộ,
nhưng
phần
còn
lại
của
căn
nhà
hoặc
thửa
đất
không
còn
đủ
để
ở
hoặc
không
còn
đủ
diện
tích
để
xây
dựng
nhà
ở
theo
quy
định
của
pháp
luật
về
xây
dựng,
buộc
phải
di
chuyển
đến
địa
điểm
mới,
thì
sẽ
được
xem
là
thỏa
điều
kiện
“phải
di
chuyển
chỗ
ở”.
Ba
là,
người
bị
THĐ
không
còn
đất
ở,
nhà
ở
nào
khác
trên
địa
bàn
cấp
xã
nơi
có
đất
bị
thu
hồi.
Điều
kiện
này
được
hiểu
là
hộ
gia
đình,
cá
nhân
khi
bị
THĐ
thì
trên
địa
bàn
cấp
xã
nơi
đang
thực
hiện
dự
án
THĐ,
họ
không
còn
thửa
đất
ở
hoặc
căn
nhà
ở
nào
khác
để
di
chuyển
đến
đó.
Điều
kiện
này
vẫn
đạt
được
nếu
người
bị
THĐ
còn
nhà
ở
hoặc
đất
ở
tại
địa
phương
khác,
ngoài
đơn
vị
cấp
xã
nơi
họ
đang
bị
THĐ.
Bên
cạnh
đó,
trường
hợp
trong
hộ
gia
đình
nêu
trên
có
nhiều
thế
hệ,
nhiều
cặp
vợ
chồng
cùng
chung
sống
trên
một
thửa
đất
ở
thu
hồi
nếu
đủ
điều
kiện
để
tách
thành
từng
hộ
gia
đình
riêng
theo
quy
định
của
pháp
luật
về
cư
trú
hoặc
có
nhiều
hộ
gia
đình
có
chung
quyền
sử
dụng
một
(01)
thửa
đất
ở
bị
thu
hồi
thì
UBND
cấp
tỉnh
căn
cứ
vào
quỹ
đất
ở,
nhà
ở
tái
định
cư
và
tình
hình
thực
tế
tại
địa
phương
quyết
định
mức
đất
ở,
nhà
ở
tái
định
cư
cho
từng
hộ
gia
đình
[7].
3.
Điều
kiện
tái
định
cư
khi
Nhà
nước
thu
hồi
đất
trong
Dự
thảo
Luật
Đất
đai
(sửa
đổi)
Theo
Điều
107
Dự
thảo
Luật
Đất
đai
(
sửa
đổi)
[8] (sau
đây
viết
tắt
là
Dự
thảo
Luật),
việc
bố
trí
tái
định
cư
cho
người
có
đất
ở
bị
thu
hồi
mà
phải
di
chuyển
chỗ
ở
được
quy
định
như
sau:
Một
là,
hộ
gia
đình,
cá
nhân
có
đất
ở,
người
Việt
Nam
định
cư
ở
nước
ngoài
đang
sở
hữu
nhà
ở
gắn
liền
với
QSDĐ
tại
Việt
Nam
khi
Nhà
nước
THĐ
đủ
điều
kiện
được
bồi
thường
về
đất
ở
thì
được
bố
trí
tái
định
cư.
Điều
kiện
bồi
thường
về
đất
ở
được
quy
định
tại
Điều
94
Dự
thảo
Luật
như
sau:
(i)
Hộ
gia
đình,
cá
nhân
đang
sử
dụng
đất
ở,
người
Việt
Nam
định
cư
ở
nước
ngoài
đang
sở
hữu
nhà
ở
gắn
liền
với
QSDĐ
tại
Việt
Nam
mà
có
đủ
điều
kiện
được
bồi
thường
quy
định
tại
Điều
90
của
Luật
này
khi
Nhà
nước
THĐ
thì
được
bồi
thường
bằng
đất
ở
hoặc
nhà
ở
hoặc
bằng
tiền
hoặc
bằng
đất
có
mục
đích
sử
dụng
khác
với
loại
đất
thu
hồi
nếu
người
có
đất
thu
hồi
có
nhu
cầu
và
địa
phương
có
điều
kiện
về
quỹ
đất.
(ii)
Hộ
gia
đình,
cá
nhân
khi
Nhà
nước
THĐ
gắn
liền
với
nhà
ở
phải
di
chuyển
chỗ
ở
mà
không
đủ
điều
kiện
được
bồi
thường
về
đất
ở,
nếu
không
có
chỗ
ở
nào
khác
thì
được
Nhà
nước
bố
trí
tái
định
cư
thông
qua
hình
thức
bán,
cho
thuê,
cho
thuê
mua
nhà
ở
hoặc
giao
đất
ở
có
thu
tiền
sử
dụng
đất
và
được
miễn,
giảm
tiền
sử
dụng
đất,
tiền
mua
nhà
ở
theo
quy
định
của
pháp
luật.
Hai
là,
tổ
chức
làm
nhiệm
vụ
bồi
thường,
giải
phóng
mặt
bằng
được
UBND
cấp
tỉnh,
UBND
cấp
huyện
giao
trách
nhiệm
bố
trí
tái
định
cư
phải
thông
báo
cho
người
có
đất
ở
thu
hồi
thuộc
đối
tượng
phải
di
chuyển
chỗ
ở
về
dự
kiến
phương
án
bố
trí
tái
định
cư
và
niêm
yết
công
khai
ít
nhất
là
15
ngày
tại
trụ
sở
UBND
cấp
xã,
địa
điểm
sinh
hoạt
chung
của
khu
dân
cư
nơi
có
đất
thu
hồi
và
tại
nơi
tái
định
cư
trước
khi
cơ
quan
nhà
nước
có
thẩm
quyền
phê
duyệt
phương
án
bố
trí
tái
định
cư.
Nội
dung
thông
báo
gồm
địa
điểm,
quy
mô
quỹ
đất,
quỹ
nhà
tái
định
cư,
thiết
kế,
diện
tích
từng
lô
đất,
căn
hộ,
giá
đất,
giá
nhà
tái
định
cư;
dự
kiến
bố
trí
tái
định
cư
cho
người
có
đất
thu
hồi.
Ba
là,
người
có
đất
ở
bị
thu
hồi
để
thực
hiện
dự
án
đầu
tư
xây
dựng
đô
thị,
chỉnh
trang
đô
thị,
dự
án
nhà
ở
thì
được
bố
trí
tái
định
cư
tại
chỗ.
Trường
hợp
THĐ
ở
để
thực
hiện
các
mục
đích
khác
thì
được
bố
trí
tái
định
cư
tại
chỗ
nếu
tại
khu
vực
THĐ
có
quỹ
đất,
quỹ
nhà
tái
định
cư.
Ưu
tiên
vị
trí
thuận
lợi
cho
hộ
gia
đình,
cá
nhân
sử
dụng
đất
ở
kết
hợp
với
kinh
doanh
dịch
vụ,
người
có
đất
thu
hồi
là
người
có
công
với
cách
mạng.
Có
cơ
chế
thưởng
đối
với
người
có
đất
thu
hồi
bàn
giao
mặt
bằng
trước
thời
hạn.
Ngoài
ra,
liên
quan
đến
chế
định
tái
định
cư
Dự
thảo
Luật
còn
quy
định:
(i)
Phương
án
bố
trí
tái
định
cư
đã
được
phê
duyệt
phải
được
công
bố
công
khai
tại
trụ
sở
UBND
cấp
xã,
địa
điểm
sinh
hoạt
chung
của
khu
dân
cư
nơi
có
đất
thu
hồi
và
tại
nơi
tái
định
cư;
(ii)
Giá
đất
cụ
thể
tính
thu
tiền
sử
dụng
đất
tại
nơi
tái
định
cư,
giá
bán
nhà
ở
tái
định
cư
do
UBND
cấp
có
thẩm
quyền
quyết
định
tại
thời
điểm
phê
duyệt
phương
án
bồi
thường,
hỗ
trợ,
tái
định
cư;
(iii)
Trường
hợp
người
có
đất
ở
hoặc
nhà
ở
chung
cư
bị
thu
hồi
được
bố
trí
tái
định
cư
mà
tiền
bồi
thường
về
đất
ở
hoặc
nhà
ở
chung
cư
không
đủ
để
mua
một
suất
tái
định
cư
tối
thiểu
thì
được
Nhà
nước
hỗ
trợ
tiền
đủ
để
mua
một
suất
tái
định
cư
tối
thiểu.
Như
vậy,
về
điều
kiện
để
được
tái
định
cư
thì
Dự
thảo
Luật
không
có
nhiều
sự
thay
đổi
so
với
quy
định
của
pháp
luật
hiện
hành,
trong
đó
có
một
số
nội
dung
thay
đổi
quan
trọng
sau:
Thứ
nhất,
Dự
thảo
Luật
không
quy
định
cụ
thể
về
điều
kiện
giao
đất
ở
cho
hộ
gia
đình,
cá
nhân,
người
Việt
Nam
định
cư
ở
nước
ngoài
bị
THĐ
ở
gắn
với
nhà
ở
hợp
pháp
cụ
thể
như
quy
định
của
pháp
luật
hiện
hành.
Đồng
thời,
Dự
thảo
Luật
cũng
không
quy
định
việc
cho
đăng
ký
xét
mua
nền
tái
định
cư
với
diện
tích
tối
thiểu
khi
THĐ
mà
trong
gia
đình
có
nhiều
thế
hệ
hoặc
có
nhiều
cặp
vợ
chồng
cùng
chung
sống
trên
thửa
đất
bị
thu
hồi
và
đủ
điều
kiện
tách
hộ
như
quy
định
hiện
nay
của
Nghị
định
số
47/2014/NĐ-CP.
Thứ
hai,
Dự
thảo
Luật
đã
quy
định
rõ
và
phù
hợp
hơn
so
với
quy
định
hiện
hành
về
hỗ
trợ
trong
trường
hợp
người
có
đất
ở
hoặc
nhà
ở
chung
cư
bị
thu
hồi
được
bố
trí
tái
định
cư
mà
tiền
bồi
thường
về
đất
ở
hoặc
nhà
ở
chung
cư
không
đủ
để
mua
một
suất
tái
định
cư
tối
thiểu
thì
được
Nhà
nước
hỗ
trợ
tiền
đủ
để
mua
một
suất
tái
định
cư
tối
thiểu.
Thứ
ba,
phân
định
rõ
vị
trí
được
tái
định
cư
khi
THĐ
để
sử
dụng
vào
từng
mục
đích
cụ
thể.
Chẳng
hạn
như
người
có
đất
ở
bị
thu
hồi
để
thực
hiện
dự
án
đầu
tư
xây
dựng
đô
thị,
chỉnh
trang
đô
thị,
dự
án
nhà
ở
thì
được
bố
trí
tái
định
cư
tại
chỗ.
Trường
hợp
THĐ
ở
để
thực
hiện
các
mục
đích
khác
thì
được
bố
trí
tái
định
cư
tại
chỗ
nếu
tại
khu
vực
THĐ
có
quỹ
đất,
quỹ
nhà
tái
định
cư.
Ưu
tiên
vị
trí
thuận
lợi
cho
hộ
gia
đình,
cá
nhân
sử
dụng
đất
ở
kết
hợp
với
kinh
doanh
dịch
vụ,
người
có
đất
thu
hồi
là
người
có
công
với
cách
mạng.
Có
cơ
chế
thưởng
đối
với
người
có
đất
bị
thu
hồi
bàn
giao
mặt
bằng
trước
thời
hạn.
4.
Bất
cập
trong
quy
định
của
pháp
luật
về
tái
định
cư
Thứ
nhất,
bất
cập
liên
quan
đến
tái
định
cư
cho người
Việt
Nam
định
cư
ở
nước
ngoài.
Theo
khoản
1
và
khoản
3
Điều
6
Nghị
định
số
47/2014/NĐ-CP
và
cả
trong
Dự
thảo
Luật
đều
quy
định
hộ
gia
đình,
cá
nhân
đang
sử
dụng
đất
ở,
người
Việt
Nam
định
cư
ở
nước
ngoài[9] đang
sở
hữu
nhà
ở
gắn
liền
với
QSDĐ
tại
Việt
Nam
khi
Nhà
nước
THĐ
ở
mà
có
Giấy
chứng
nhận
QSDĐ
hoặc
đủ
điều
kiện
để
được
cấp
Giấy
chứng
nhận
QSDĐ,
quyền
sở
hữu
nhà
ở
và
tài
sản
khác
gắn
liền
với
đất
theo
quy
định
của
pháp
luật
về
đất
đai
nếu
thuộc
trường
hợp
thu
hồi
hết
đất
ở
hoặc
phần
diện
tích
đất
ở
còn
lại
sau
thu
hồi
không
đủ
điều
kiện
để
ở
theo
quy
định
của
UBND
cấp
tỉnh
mà
hộ
gia
đình,
cá
nhân
không
còn
đất
ở,
nhà
ở
nào
khác
trong
địa
bàn
xã,
phường,
thị
trấn
nơi
có
đất
ở
thu
hồi
thì
được
bồi
thường
bằng
đất
ở
hoặc
nhà
ở
tái
định
cư.
Nếu
hộ
gia
đình,
cá
nhân,
người
Việt
Nam
định
cư
ở
nước
ngoài thuộc
các
trường
hợp
nêu
trên
mà
không
có
nhu
cầu
bồi
thường
bằng
đất
ở
hoặc
bằng
nhà
ở
tái
định
cư
thì
được
Nhà
nước
bồi
thường
bằng
tiền.
Người
Việt
Nam
định
cư
ở
nước
ngoài
có
thể
được
sở
hữu
nhà
ở
gắn
liền
với
đất
ở
tại
Việt
Nam
nếu
thuộc
đối
tượng
được
sở
hữu
nhà
ở
tại
Việt
Nam
theo
pháp
luật
về
nhà
ở
[10].
Nhóm
đối
tượng
này
có
thể
sở
hữu
nhà
ở
Việt
Nam
để
thuận
tiện
cho
việc
về
nước
ngắn
hạn
thăm
người
thân
hoặc
đầu
tư,
kinh
doanh
hoặc
quay
về
sinh
sống
lâu
dài
ở
Việt
Nam
[11].
Như
vậy,
nhóm
đối
tượng
này
hoàn
toàn
có
khả
năng
bị
Nhà
nước
thu
hồi
nhà
ở
gắn
liền
với
đất
ở
để
thực
hiện
các
dự
án
phục
vụ
mục
đích
quốc
phòng,
an
ninh,
phát
triển
kinh
tế
-
xã
hội
vì
lợi
ích
quốc
gia,
công
cộng.
Chính
vì
vậy,
Điều
6
Nghị
định
số
47/2014/NĐ-CP,
Điều
94
và
Điều
107
Dự
thảo
Luật
đưa
người
Việt
Nam
định
cư
ở
nước
ngoài
vào
nhóm
đối
tượng
được
tái
định
cư
khi
Nhà
nước
THĐ
là
hoàn
toàn
phù
hợp
với
tình
hình
thực
tế
hiện
nay.
Tuy
nhiên,
pháp
luật
hiện
hành
cũng
như
trong
Dự
thảo
Luật
đều
quy
định
rằng,
trong
trường
hợp
người
Việt
Nam
định
cư
ở
nước
ngoài
bị
THĐ
ở
gắn
với
nhà
ở
hợp
pháp
tại
Việt
Nam
thì
họ
sẽ
được
bồi
thường
bằng
đất
ở
hoặc
nhà
ở
tái
định
cư,
trong
trường
hợp
họ
không
có
nhu
cầu
về
đất
ở,
nhà
ở
thì
được
bồi
thường
bằng
tiền.
Như
vậy,
một
vấn
đề
được
đặt
ra
là
một
cá
nhân
cụ
thể
nào
đó
là
người
Việt
Nam
định
cư
ở
nước
ngoài,
khi
Nhà
nước
THĐ
thì
trường
hợp
nào
sẽ
được
xét
bồi
thường
bằng
đất
ở
hoặc
nhà
ở
tái
định
cư
trong
khi
họ
được
xem
là
đang
cư
trú,
sinh
sống
lâu
dài
ở
nước
ngoài?
Đây
là
vấn
đề
mà
các
quy
định
của
pháp
luật
hiện
hành
và
cả
trong
Dự
thảo
Luật
còn
chưa
làm
rõ,
chưa
phân
định
được
các
trường
hợp
cụ
thể
để
xét
điều
kiện
được
giao
đất
ở,
nhà
ở
tái
định
cư
hoặc
hỗ
trợ
tái
định
cư,
dẫn
đến
sự
lúng
túng
cho
phía
cơ
quan
nhà
nước
trong
việc
áp
dụng
pháp
luật
và
tạo
tâm
lý
không
an
tâm
cho
người
Việt
Nam
định
cư
ở
nước
ngoài
khi
về
Việt
Nam
sở
hữu
nhà
ở
gắn
liền
với
đất
ở.
Thứ
hai,
về
điều
kiện
“không
còn
thửa
đất
ở,
nhà
ở
nào
khác
trên
địa
bàn
cấp
xã
nơi
có
đất
bị
thu
hồi”.
Đối
với
quy
định
này,
hiện
không
có
văn
bản
giải
thích
cụ
thể
dẫn
đến
nhiều
cách
hiểu
và
thực
hiện
khác
nhau,
tạo
sự
không
thống
nhất
và
không
công
bằng
trong
quá
trình
xét
tái
định
cư.
Cách
hiểu
thứ
nhất:
để
xem
xét
điều
kiện
“không
còn
đất
ở,
nhà
ở”
thì
chỉ
kiểm
tra
đối
với
chủ
hộ,
tức
là
người
có
tên
trên
Giấy
chứng
nhận
QSDĐ
bị
thu
hồi
mà
không
kiểm
tra
điều
kiện
này
đối
với
tất
cả
các
thành
viên
của
hộ
gia
đình.
Cách
làm
này
tạo
được
sự
thuận
lợi
cho
cơ
quan
nhà
nước
khi
xét
điều
kiện
tái
định
cư,
nhưng
có
khả
năng
dẫn
đến
tình
trạng
những
thành
viên
khác
trong
hộ
gia
đình
vẫn
còn
đất
ở,
nhà
ở
khác,
thì
việc
tái
định
cư
bằng
đất
ở
hoặc
nhà
ở
chung
cư
cho
hộ
gia
đình
này
là
không
thật
sự
cần
thiết,
dễ
tạo
tâm
lý
lợi
dụng
chính
sách
hỗ
trợ
của
Nhà
nước
về
tái
định
cư,
đồng
thời
tăng
thêm
gánh
nặng
cho
chính
quyền
địa
phương
trong
việc
tạo
lập
quỹ
đất,
quỹ
nhà
tái
định
cư.
Cách
hiểu
thứ
hai:
nếu
trên
Giấy
chứng
nhận
QSDĐ
thể
hiện
người
sử
dụng
đất
là
cá
nhân
thì
chỉ
xét
riêng
đối
với
cá
nhân
đó,
nếu
là
hộ
thì
xét
tất
cả
thành
viên
của
hộ.
Tác
giả
cho
rằng,
hiểu
và
thực
hiện
theo
cách
thứ
hai
sẽ
hợp
lý
hơn.
Tuy
nhiên,
cả
hai
cách
hiểu
này
và
quy
định
của
pháp
luật
hiện
nay
cũng
như
Dự
thảo
Luật
đều
chưa
giải
quyết
được
một
tình
huống
xảy
ra
trên
thực
tế,
đó
là
trong
trường
hợp
xét
tái
định
cư
cho
chủ
hộ
hoặc
cá
nhân
bị
THĐ,
đối
tượng
này
đủ
điều
kiện
để
được
giao
nền
tái
định
cư
hoặc
hỗ
trợ
mua
nền
tái
định
cư,
nhưng
trước
khi
có
quyết
định
giao
nền
tái
định
cư
thì
người
này
chết.
Bởi
vì,
mục
đích
của
chế
định
tái
định
cư
là
nhằm
giúp
tạo
lập
lại
chỗ
ở
cho
người
bị
THĐ,
nhưng
hiện
nay
đối
tượng
đó
đã
chết;
như
vậy,
thủ
tục
này
có
tiếp
tục
được
thực
hiện
và
người
thừa
kế
hợp
pháp
của
đối
tượng
này
sẽ
được
nhận
suất
tái
định
cư
này
như
một
di
sản
của
người
chết
là
nội
dung
chưa
được
làm
rõ
trong
Dự
thảo
Luật.
5. Kiến
nghị
Từ
những
bất
cập
trong
quy
định
của
pháp
luật
đất
đai
hiện
hành
liên
quan
đến
chế
định
tái
định
cư
và
căn
cứ
vào
nội
dung
về
tái
định
cư
trong
Dự
thảo
Luật
Đất
đai
(
sửa
đổi),
tác
giả
kiến
nghị
một
số
giải
pháp
sau:
Một
là,
khoản
1
Điều
94
Dự
thảo
Luật
về
điều
kiện
bồi
thường
về
đất
khi
Nhà
nước
THĐ
ở
cần
được
sửa
đổi
theo
hướng:
hộ
gia
đình,
cá
nhân
đang
sử
dụng
đất
ở,
người
Việt
Nam
định
cư
ở
nước
ngoài
đang
sở
hữu
nhà
ở
gắn
liền
với
QSDĐ
tại
Việt
Nam
mà
có
đủ
điều
kiện
được
bồi
thường
quy
định
tại
Điều
90
của
Luật
này
khi
Nhà
nước
THĐ
thì
được
bồi
thường
bằng
đất
ở
hoặc
nhà
ở
hoặc
bằng
tiền
hoặc
bằng
đất
có
mục
đích
sử
dụng
khác
với
loại
đất
thu
hồi
nếu
người
có
đất
bị
thu
hồi
có
nhu
cầu
và
địa
phương
có
điều
kiện
về
quỹ
đất
với
điều
kiện
đối
tượng
này
bị
THĐ
ở
hợp
pháp
(hoặc
đủ
điều
kiện
được
công
nhận
đất
ở),
có
nhà
ở
hợp
pháp
trên
thửa
đất
ở
bị
thu
hồi
và
đây
là
nơi
họ
đăng
ký
hộ
khẩu
thường
trú
hoặc
tạm
trú
liên
tục
từ
12
tháng
trở
lên
tính
từ
thời
điểm
có
thông
báo
THĐ.
Việc
bổ
sung
quy
định
cụ
thể
này
sẽ
giúp:
(i)
giải
quyết
được
tình
trạng
do
yếu
tố
lịch
sử
để
lại
về
việc
người
dân
xây
dựng
nhà
ở
trên
đất
không
phải
là
đất
ở,
mà
không
nhằm
mục
đích
“đón
quy
hoạch”,
“đón
dự
án”,
chẳng
hạn
như
xây
dựng
nhà
trên
đất
nông
nghiệp,
xây
dựng
nhà
ven
các
con
sông,
kênh,
rạch…;
(ii)
tránh
được
tình
trạng
nhận
chuyển
nhượng
đất
ở,
mua
nhà
ở
trong
khu
vực
có
quy
hoạch
hoặc
dự
án
để
hưởng
lợi
từ
sự
chưa
rõ
ràng
trong
quy
định
về
tái
định
cư.
Bên
cạnh
đó,
khi
xét
điều
kiện
“không
còn
đất
ở,
nhà
ở
nào
khác
trên
địa
bàn
cấp
xã
nơi
có
đất
bị
thu
hồi”,
cần
thống
nhất
căn
cứ
vào
thông
tin
của
người
sử
dụng
đất
trên
Giấy
chứng
nhận
QSDĐ
hoặc
giấy
tờ
về
QSDĐ
khác
để
thực
hiện
theo
hướng:
(i)
nếu
đất
thuộc
quyền
sử
dụng
của
hộ
gia
đình,
thì
xét
tất
cả
các
thành
viên
trong
hộ
gia
đình;
(ii)
nếu
đất
là
cá
nhân
thì
chỉ
xét
cá
nhân
đứng
tên
trên
Giấy
chứng
nhận
QSDĐ,
quyền
sở
hữu
nhà.
Trong
trường
hợp,
sau
khi
đã
xét
xong
điều
kiện
về
tái
định
cư,
người
được
xét
đủ
điều
kiện
để
được
tái
định
cư,
nhưng
sau
đó
người
này
chết,
thì
vẫn
phải
tiếp
tục
thực
hiện
việc
giao
đất
ở
hoặc
nhà
ở
tái
định
cư
cho
người
thừa
kế
hợp
pháp
của
người
này,
vì
đây
là
quyền
lợi
chính
đáng
của
họ.
Hai
là,
cần
bổ
sung
thêm
một
khoản
mới
tại
Điều
94
và
Điều
107
Dự
thảo
Luật
để
quy
định
riêng
điều
kiện
bồi
thường
đất
ở
và
điều
kiện
bố
trí
tái
định
cư
cho
người
Việt
Nam
định
cư
ở
nước
ngoài
bị
THĐ
ở
gắn
với
nhà
ở
hợp
pháp.
Cụ
thể,
chỉ
thực
hiện
việc
bồi
thường
bằng
đất
ở
hoặc
nhà
ở
tái
định
cư
và
xét
tái
định
cư
cho
những
người
Việt
Nam
định
cư
ở
nước
ngoài
nào
đã
hồi
hương
và
đang
thường
trú
tại
Việt
Nam,
địa
chỉ
thường
trú
là
căn
nhà
đang
bị
THĐ,
điều
kiện
xét
giống
với
hộ
gia
đình,
cá
nhân
trong
nước
như
đề
xuất
ở
trên.
Nếu
người
Việt
Nam
định
cư
ở
nước
ngoài
bị
THĐ
ở
hoặc
nhà
ở
nhưng
họ
không
thường
trú
ở
Việt
Nam
thì
sẽ
không
được
bồi
thường
bằng
đất
ở
hoặc
nhà
ở
tái
định
cư
mà
sẽ
nhận
bồi
thường
bằng
tiền,
vì
trong
trường
hợp
này
họ
không
được
xem
là
“phải
di
chuyển
chỗ
ở”
và
cũng
không
gặp
khó
khăn
hoặc
có
nhu
cầu
cấp
thiết
về
chỗ
ở.
Ba
là,
hiện
nay
vẫn
còn
xảy
ra
tình
trạng
khu
tái
định
cư
dù
đã
giao
đất,
nhà
tái
định
cư
cho
người
bị
THĐ
vào
ở,
nhưng
khu
tái
định
cư
vẫn
chưa
được
đầu
tư
hệ
thống
hạ
tầng
kỹ
thuật
[12] và
hệ
thống
hạ
tầng
xã
hội
[13] hoàn
chỉnh,
gây
nhiều
khó
khăn
cho
người
bị
THĐ
cả
về
đời
sống
và
sản
xuất,
làm
giảm
hiệu
quả
của
chính
sách
tái
định
cư.
Bên
cạnh
đó,
việc
khảo
sát
xây
dựng
nhiều
khu
tái
định
cư
chưa
bảo
đảm
được
sự
thuận
lợi
cho
người
dân
trong
việc
di
chuyển,
sinh
sống
và
sản
xuất.
Trong
thời
gian
qua,
người
bị
THĐ
đã
được
bồi
thường,
hỗ
trợ
khi
Nhà
nước
THĐ,
nhưng
nhiều
thiệt
hại
hiện
nay
vẫn
chưa
được
bồi
thường
tương
xứng
với
thiệt
hại
của
họ
[14],
người
bị
THĐ
đã
phải
nhượng
lại
lợi
ích
cá
nhân
của
mình
cho
lợi
ích
công
cộng,
cho
sự
phát
triển
chung
của
đất
nước,
xã
hội.
Mặc
dù
khoản
2
Điều
89
Dự
thảo
Luật
có
quy
định
nguyên
tắc:
“
Việc
bồi
thường
khi
Nhà
nước
THĐ
phải
bảo
đảm
người
có
đất
bị
thu
hồi
có
chỗ
ở,
đảm
bảo
thu
nhập
và
điều
kiện
sống
bằng
hoặc
tốt
hơn
nơi
ở
cũ”,
nhưng
đây
là
nguyên
tắc
bồi
thường
về
đất
(trong
đó
có
đất
ở),
mà
không
phải
nguyên
tắc
chung
trong
đầu
tư,
xây
dựng
khu
tái
định
cư.
Ngoài
ra,
nguyên
tắc
bồi
thường
đất
nêu
trên
là
vượt
quá
phạm
vi
của
việc
bồi
thường
đất,
vì
trong
trường
hợp
bồi
thường
đất,
chỉ
cần
đặt
ra
nguyên
tắc
là
bồi
thường
tương
xứng
giá
trị
đất
bị
thu
hồi,
trong
trường
hợp
giao
đất
ở
thì
vị
trí
đất
được
giao
phải
có
điều
kiện
về
hệ
thống
hạ
tầng
bằng
hoặc
tốt
hơn
nơi
ở
cũ,
mà
việc
bồi
thường
về
đất
không
thể
“
đảm
bảo
thu
nhập
và
điều
kiện
sống
bằng hoặc
tốt
hơn
nơi
ở
cũ”.
Do
đó,
tác
giả
cho
rằng,
cần
bổ
sung
vào
khoản
2
Điều
106
Dự
thảo
Luật
về
lập
và
thực
hiện
dự
án
tái
định
cư
quy
định
“
khu
tái
định
cư
phải
có
hệ
thống
hạ
tầng[15] bằng
hoặc
tốt
hơn
nơi
ở
cũ
theo
quy
định
của
Chính
phủ[16]”.
Ngoài
ra,
do
hiện
nay
vẫn
còn
tình
trạng
khu
tái
định
cư
sau
khi
đã
giao
đất
hoặc
nhà
ở
cho
người
bị
THĐ
vào
ở
nhưng
điều
kiện
hạ
tầng
của
khu
tái
định
cư
không
bảo
đảm
về
chất
lượng
[17],
thiếu
sự
đồng
bộ
và
kết
nối
với
hệ
thống
hạ
tầng
xung
quanh
[18],
do
đó
cần
bổ
sung
vào
Điều
106
Dự
thảo
Luật
một
khoản
mới
với
quy
định:
“
người
được
bồi
thường
bằng
đất
ở,
nhà
ở
tái
định
cư được
kiểm
tra
về
chất
lượng
của
hệ
thống
hạ
tầng
trong
khu
tái
định
cư
trước
khi
cơ
quan
có
thẩm
quyền quyết
định
giao
đất
ở hoặc
nhà
ở tái
định
cư”.
Việc
bổ
sung
quy
định
này
sẽ
giúp
bảo
đảm
được
tốt
hơn
điều
kiện
sống
cho
người
dân
có
đất
thu
hồi
đồng
thời
cũng
tăng
trách
nhiệm
của
chính
quyền
địa
phương
trong
việc
đầu
tư
xây
dựng
các
khu
tái
định
cư.
Bốn
là,
cần
thiết
phải
bổ
sung
quy
định
mới
về
hỗ
trợ
hậu
tái
định
cư.
Theo
đó,
Dự
thảo
Luật
cần
bổ
sung
quy
định
sau
thời
điểm
giao
đất
ở,
nhà
ở
tái
định
cư,
trong
thời
gian
không
quá
02
năm,
UBND
cấp
huyện
nơi
có
dự
án
tái
định
cư
phải
khảo
sát
điều
kiện
sống
và
thu
nhập
của
những
người
dân
có
đất
thu
hồi
trong
khu
tái
định
cư
để
có
những
chính
sách
hỗ
trợ
cần
thiết
nhằm
giúp
họ
có
được
điều
kiện
sống
và
làm
việc
bằng
hoặc
tốt
hơn
giai
đoạn
trước
khi
bị
THĐ.
Việc
bổ
sung
quy
định
mới
này
sẽ
thể
hiện
sự
quan
tâm
của
Đảng
và
Nhà
nước
đối
với
người
dân
có
đất
thu
hồi,
những
người
đã
sẵn
sàng
nhượng
lại
lợi
ích
cá
nhân
của
mình
để
phục
vụ
cho
lợi
ích
chung
của
quốc
gia,
công
cộng.
6.
Kết
luận
Chính
sách
về
hỗ
trợ
tái
định
cư
là
một
chính
sách
vừa
thể
hiện
sự
công
bằng,
rõ
ràng
của
Nhà
nước
đối
với
người
bị
THĐ,
vừa
thể
hiện
tính
nhân
văn
của
Đảng
và
Nhà
nước
trong
việc
quan
tâm
tạo
lập
chỗ
ở
ổn
định
cho
người
dân
có
đất
bị
thu
hồi.
Chính
vì
vậy,
việc
hoàn
thiện
chế
định
tái
định
cư
là
yêu
cầu
cấp
thiết
cả
về
lý
luận
và
thực
tiễn
để
đạt
được
mục
tiêu
tạo
lập
được
chỗ
ở
ổn
định
cho
người
bị
THĐ,
từ
đó
họ
có
thể
“an
cư
lạc
nghiệp”,
song
song
đó,
chế
định
tái
định
cư
còn
giúp
cân
bằng
quyền
lợi
giữa
các
bên
khi
thực
hiện
các
dự
án
vì
lợi
ích
quốc
gia,
công
cộng./.
[1] Ngọc
Lương
(2011),
Từ
điển
Tiếng
Việt,
Nxb.
Thanh
Niên,
Hà
Nội,
tr.
581,
206.
[2] Ban
quản
lý
trung
ương
các
dự
án
thủy
lợi
(CPO):
“Khung
chính
sách
tái
định
cư
(RPF)”, Hà
Nội,
tháng
6-2013,
http://www.agroviet.gov.vn/Lists/appsp01_lawdocumentlist/Attachments/111/KhungCS_TaiDC.pdf,
truy
cập
ngày
12/7/2022.
[3] Khoản
1
Điều
22
Nghị
định
số
47/2014/NĐ-CP.
[4] Khoản
2
Điều
6
Nghị
định
số
47/2014/NĐ-CP.
[5] Quy
định
này
có
thể
được
tìm
thấy
tại
nhiều
địa
phương
như:
Điều
21
Quyết
định
số
15/2014/QĐ-UBND
của
UBND
thành
phố
Cần
Thơ;
Điều
27
Quy
định các
nội
dung
thuộc
thẩm
quyền
của
UBND
Tp.
Hà
Nội
về
bồi
thường,
hỗ
trợ
và
tái
định
cư
khi
Nhà
nước
thu
hồi
đất
trên
địa
bàn
Tp.
Hà
Nội (Ban
hành
kèm
theo
Quyết
định
số
10/2017/QĐ-UBND
ngày
29/3/2017
của
UBND
Tp.
Hà
Nội)…
[6] Khoản
1
và
khoản
3
Điều
6
Nghị
định
số
47/2014/NĐ-CP.
[7] Khoản
2
Điều
6
Nghị
định
số
47/2014/NĐ-CP.
[8] Tác
giả
sử
dụng
Dự
thảo
Luật
Đất
đai
(
sửa
đổi)
số
4,
công
bố
ngày
05/01/2023
tạihttp://duthaoonline.quochoi.vn/Pages/dsduthao/chitietduthao.aspx?id=7415,
truy
cập
ngày
30/9/2022.
[9] Theo
định
nghĩa
tại
khoản
3
Điều
3
Luật
Quốc
tịch
năm
2008
(được
sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2014),
người
Việt
Nam
định
cư
ở
nước
ngoài
là
công
dân
Việt
Nam
và
người
gốc
Việt
Nam
cư
trú,
sinh
sống
lâu
dài
ở
nước
ngoài.
Như
vậy,
người
Việt
Nam
định
cư
ở
nước
ngoài
bao
gồm
hai
nhóm:
(i)
công
dân
Việt
Nam
(tức
là
những
người
còn
mang
quốc
tịch
Việt
Nam);
(ii)
người
gốc
Việt
Nam
định
cư
ở
nước
ngoài
(là
những
người
hiện
không
còn
mang
quốc
tịch
Việt
Nam).
[10] Điều
8
Luật
Nhà
ở
năm
2014.
[11] Trần
Vang
Phủ,
Trần
Thụy
Quốc
Thái
(2020),
Hoàn
thiện
quy
định
của
pháp
luật
về
quyền
sử
dụng
đất
ở,
nhà
ở
của
người
Việt
Nam
định
cư
ở
nước
ngoài,
Tạp
chí
Nghiên
cứu
Lập
pháp,
số
4
-
tháng
02/2020,
tr.
38-39.
[12] Theo
quy
định
tại
khoản
22
Điều
3
Luật
Xây
dựng
năm
2014
đã
được
sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2020
(Luật
Xây
dựng)
thì
Hệ
thống
công
trình
hạ
tầng
kỹ
thuật gồm
công
trình
giao
thông,
thông
tin
liên
lạc,
cung
cấp
năng
lượng,
chiếu
sáng
công
cộng,
cấp
nước,
thu
gom
và
xử
lý
nước
thải,
chất
thải
rắn,
nghĩa
trang
và
công
trình
khác.
[13] Theo
quy
định
tại
khoản
23
Điều
3
Luật
Xây
dựng
thì
Hệ
thống
công
trình
hạ
tầng
xã
hội gồm
công
trình
y
tế,
văn hóa,
giáo
dục,
thể
thao,
thương
mại,
dịch
vụ
công
cộng,
cây
xanh,
công
viên
và
công
trình
khác.
[14] Trần
Vang
Phủ
(2018),
Xác
định
giá
trị
bồi
thường
đối
với
nhà,
công
trình
xây
dựng
khi
Nhà
nước
thu
hồi
đất, Tạp
chí
Nhà
nước
và
Pháp
luật,
số
02/2018,
tr.
60-61.
[15] Hệ
thống
hạ
tầng là
thuật
ngữ
chuyên
môn
dùng
để
chỉ
chung
cho
cả
02
nhóm
công
trình
thuộc
nhóm
Hệ
thống
công
trình
hạ
tầng
kỹ
thuật
và
Hệ
thống
công
trình
hạ
tầng
xã
hội.
Việc
một
số
tài
liệu
sử
dụng
thuật
ngữ
“
cơ
sở
hạ
tầng”
để
chỉ
chung
cho
các
công
trình
hạ
tầng
kỹ
thuật
và
hạ
tầng
xã
hội
(hệ
thống
cầu,
đường,
trường,
trạm…)
là
chưa
chính
xác,
vì
nội
hàm
của
thuật
ngữ
“cơ
sở
hạ
tầng”
được
dùng
để
chỉ
toàn
bộ
những
quan
hệ
sản
xuất
hợp
thành
cơ
cấu
kinh
tế
của
xã
hội,
trong
mối
quan
hệ
biện
chứng
với
“Kiến
trúc
thượng
tầng”.
[16] Trong
trường
hợp
thu
hồi
đất
ở
nông
thôn
hoặc
vùng
ven
đô
thị
thì
việc
đầu
tư
xây
dựng
các
khu
tái
định
cư
có
thể
dễ
dàng
bảo
đảm
được
điều
kiện
về
hệ
thống
hạ
tầng
của
khu
tái
định
cư
tốt
hơn
so
với
nơi
ở
cũ
của
người
bị
thu
hồi
đất
trước
đây.
Tuy
nhiên,
trong
trường
hợp
thu
hồi
đất
để
chỉnh
trang
đô
thị,
nâng
cấp
hệ
thống
giao
thông
ở
nội
đô
thị
thì
có
nhiều
trường
hợp
người
dân
đang
có
chỗ
ở,
kinh
doanh
thuận
lợi,
tiếp
giáp
với
giao
đường
giao
thông
lớn,
gần
các
trung
tâm
mua
sắm,
khu
tiện
ích…
Vì
vậy,
nếu
quy
định
cứng
nhắc
mà
không
chia
ra
các
trường
hợp
cụ
thể
để
xử
lý
thì
dễ
dẫn
đến
sự
khiếu
nại
hoặc
so
bì,
kỳ
kèo
sau
này
từ
phía
người
bị
thu
hồi
đất.
[17] Công
Tràng,
Chí
Điển
(2022),
Cần
Thơ:
Cám
cảnh
người
dân
khu
tái
định
cư
10
năm
sống
không
điện,
nước.
https://www.quochoitv.vn/can-tho-cam-canh-nguoi-dan-khu-tai-dinh-cu-10-nam-song-khong-dien-nuoc,
truy
cập
ngày
11/11/2022.
[18] Nguyễn
Thị
Kim
Phượng,
Đặng
Anh
Quân
(2019),
Thực
trạng
xây
dựng
và
chất
lượng
khu
tái
định
cư
nhìn
từ
thực
tiễn
áp
dụng
pháp
luật
tại
tỉnh
Bình
Dương,
Tạp
chí
Nghiên
cứu
lập
pháp
số
1(377)-
kỳ
1,
tháng
1/2019,
tr.
52-58.
(Nguồn
tin:
Bài
viết
được
đăng
tải
trên
Ấn
phẩm
Tạp
chí
Nghiên
cứu
Lập
pháp
số
07
(479),
tháng
4/2023.)