Trong
hoạt
động
thanh
tra,
các
chủ
thể
có
thẩm
quyền
trong
thanh
tra
ban
hành
nhiều
quyết
định,
thực
hiện
nhiều
hành
vi
liên
quan
đến
quyền,
lợi
ích
của
đối
tượng
thanh
tra.
Luật
Thanh
tra
quy
định
đối
tượng
thanh
tra
có
quyền
khiếu
nại
các
quyết
định,
hành
vi
đó
nếu
cho
rằng
các
quyết
định,
hành
vi
đó
trái
pháp
luật,
xâm
phạm
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
mình.
Các
quyết
định,
hành
vi
đó
là
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính
nên
việc
khiếu
nại,
giải
quyết
khiếu
nại
quyết
định,
hành
vi
trong
thanh
tra
được
áp
dụng
theo
pháp
luật
về
khiếu
nại
nói
chung
(Luật
Khiếu
nại
năm
2011
và
các
văn
bản
có
liên
quan),
song
Luật
Thanh
tra
cũng
có
một
số
quy
định
chi
tiết
về
nội
dung
này,
trong
đó
có
đối
tượng
khiếu
nại.
Khoản
1
Điều
92
Luật
Thanh
tra
quy
định
đối
tượng
thanh
tra
có
quyền
khiếu
nại
quyết
định,
hành
vi
của
người
tiến
hành
thanh
tra
trong
quá
trình
thanh
tra;
khiếu
nại
quyết
định
xử
lý
về
thanh
tra.
Như
vậy,
đối
tượng
khiếu
nại
gồm:
Một
là,
quyết
định,
hành
vi
của
người
tiến
hành
thanh
tra
trong
quá
trình
thanh
tra.
Người
tiến
hành
thanh
tra
gồm
người
ra
quyết
định
thanh
tra,
Trưởng
đoàn
thanh
tra
và
các
thành
viên
khác
của
Đoàn
thanh
tra
[1].
Như
vậy,
đối
tượng
thanh
tra
được
quyền
khiếu
nại
đối
với
các
quyết
định,
hành
vi
của
người
ra
quyết
định
thanh
tra,
của
Trưởng
đoàn,
các
thành
viên
khác
của
Đoàn
thanh
tra
trong
quá
trình
thanh
tra
như:
quyết
định
thanh
tra;
quyết
định
tạm
giữ
tài
sản,
giấy
phép,
chứng
chỉ
hành
nghề;
quyết
định
thu
hồi
tài
sản
của
đối
tượng
thanh
tra
khi
có
hành
vi
chiếm
đoạt,
sử
dụng
trái
pháp
luật;
quyết
định
niêm
phong
tài
liệu;
quyết
định
kiểm
kê
tài
sản;
hành
vi
yêu
cầu
tổ
chức
tín
dụng
phong
tỏa
tài
khoản
của
đối
tượng
thanh
tra…
Hai
là,
quyết
định
xử
lý
về
thanh
tra.
Khoản
15
Điều
2
Luật
Thanh
tra
quy
định:
quyết
định xử
lý về thanh
tra bao
gồm
quyết
định
của
người
tiến
hành
thanh
tra để thực
hiện
quyền
trong
hoạt
động
thanh
tra
và
quyết
định
của Thủ
trưởng cơ
quan
quản
lý
nhà
nước
có
thẩm
quyền,
Thủ
trưởng
cơ
quan
thực
hiện
chức
năng
thanh
tra để thực
hiện
kết
luận
thanh
tra.
Theo
quy
định
này,
có
thể
chia
quyết
định
xử
lý
về
thanh
tra
thành
hai
nhóm:
Nhóm
thứ
nhất: quyết
định
do
người
tiến
hành
thanh
tra
ban
hành
để
thực
hiện
quyền
trong
hoạt
động
thanh
tra.
Có
thể
nói,
nhóm
này
về
cơ
bản
là
trùng
với
các
quyết
định
của
người
tiến
hành
thanh
tra
ban
hành
trong
quá
trình
thanh
tra
đã
nói
ở
trên.
Bởi
lẽ,
các
quyết
định
như
quyết
định
thanh
tra,
quyết
định
tạm
giữ
tài
sản,
giấy
phép,
chứng
chỉ
hành
nghề,
quyết
định
thu
hồi
tài
sản…
vừa
là
quyết
định
do
người
tiến
hành
thanh
tra
ban
hành
trong
quá
trình
thanh
tra,
vừa
là
quyết
định
được
ban
hành
để
các
chủ
thể
đó
thực
hiện
quyền
trong
hoạt
động
thanh
tra.
Nhóm
thứ
hai: quyết
định
do
Thủ
trưởng
cơ
quan
quản
lí,
Thủ
trưởng
cơ
quan
thực
hiện
chức
năng
thanh
tra
ban
hành
để
thực
hiện
kết
luận
thanh
tra.
Tuy
nhiên,
nếu
theo
các
điều
liên
quan
đến
quyết
định
xử
lý
về
thanh
tra,
như:
Điều
11,
15,
19,
23,
27,
31
về
thẩm
quyền
của
các
cơ
quan
thanh
tra
được
quy
định
là
“theo
dõi,
đôn
đốc,
kiểm
tra
việc
thực
hiện
kết
luận,
kiến
nghị,
quyết
định
xử
lý
về
thanh
tra”,
hoặc
Điều
7
về
trách
nhiệm
phối
hợp
giữa
cơ
quan
thực
hiện
chức
năng
thanh
tra
với
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
liên
quan
có
trách
nhiệm
thực
hiện
yêu
cầu,
kiến
nghị
của
cơ
quan
thực
hiện
chức
năng
thanh
tra,
quyết
định
xử
lý
về
thanh
tra,
Điều
104
về
trách
nhiệm
của
người
đứng
đầu
cơ
quan,
tổ
chức
quản
lý
trực
tiếp
đối
tượng
thanh
tra,
trong
thời
hạn
15
ngày
kể
từ
ngày
công
khai
kết
luận
thanh tra
phải
thực
hiện
đầy
đủ,
kịp
thời,
đúng
thời
hạn
quyết
định
xử
lý
về
thanh
tra,
chỉ
đạo
đối
tượng
thanh
tra
thực
hiện
quyết
định
xử
lý
về
thanh
tra,
áp
dụng
biện
pháp
theo
thẩm
quyền
để
giải
quyết
khó
khăn,
vướng
mắc
của
đối
tượng
thanh
tra
trong
quá
trình
thực
hiện
quyết
định
xử
lý
về
thanh
tra,
hay
Điều
105
về
trách
nhiệm
của
các
cơ
quan
thanh
tra
theo
dõi,
đôn
đốc,
kiểm
tra
việc
thực
hiện
quyết
định
xử
lý
về
thanh
tra
của
mình
và
của
thủ
trưởng
cơ
quan
quản
lý
nhà
nước
cùng
cấp
thì
dường
như
quyết
định
xử
lý
về
thanh
tra
là
quyết
định
được
ban
hành
trên
cơ
sở
kết
luận
thanh
tra
để
xử
lý
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật,
yếu
kém
về
quản
lý
được
phát
hiện
qua
quá
trình
thanh
tra.
Nói
cách
khác,
quyết
định
xử
lý
về
thanh
tra
theo
các
quy
định
này
chỉ
là
các
quyết
định
thuộc
nhóm
thứ
hai
theo
sự
phân
chia
ở
trên.
Bên
cạnh
đó,
cùng
với
thuật
ngữ quyết
định
xử
lý
về
thanh
tra,
Luật
còn
sử
dụng
thuật
ngữ quyết
định
xử
lý
sau
thanh
tra.
Chẳng
hạn,
cũng
là
quyết
định
của
Bộ
trưởng,
Điều
11
Luật
Thanh
tra
nhắc
đến
quyết
định
xử
lý
sau
thanh
tra,
Điều
15
là
quyết
định
xử
lý
về
thanh
tra,
hay
Chủ
tịch
Ủy
ban
nhân
dân
cấp
tỉnh
cũng
có
quyết
định
xử
lý
sau
thanh
tra
ở
Điều
11
và
quyết
định
xử
lý
về
thanh
tra
ở
Điều
23.
Luật
Thanh
tra
có
giải
thích
quyết
định
xử
lý
về
thanh
tra
tại
khoản
15
Điều
2
nhưng
không
có
quy
định
nào
giải
thích
về
quyết
định
xử
lý
sau
thanh
tra
và
cũng
không
có
quy
định
về
trách
nhiệm
thực
hiện,
đôn
đốc,
theo
dõi
việc
thực
hiện
quyết
định
xử
lý
sau
thanh
tra.
Nếu
căn
cứ
vào
thủ
tục
thanh
tra
được
quy
định
tại
Điều
49,
Điều
50
của
Luật
Thanh
tra,
một
cuộc
thanh
tra
kết
thúc
khi
kết
luận
thanh
tra
được
ban
hành.
Như
vậy,
các
quyết
định
ban
hành
trên
cơ
sở
kết
luận
thanh
tra
và
để
thực
hiện
kết
luận
thanh
tra
có
thể
coi
là
quyết
định
xử
lý
sau
thanh
tra.
Vấn
đề
đặt
ra
ở
đây
là quyết
định
xử
lý
sau
thanh
tra và quyết
định
xử
lý
về
thanh
tra chỉ
là
hai
cách
gọi
của
cùng
một
loại
quyết
định
được
ban
hành
trong
hoạt
động
thanh
tra
hay
là
hai
loại
quyết
định
khác
nhau.
Nếu
chỉ
là
một
loại
quyết
định,
thiết
nghĩ
Luật
Thanh
tra
không
nên
dùng
các
thuật
ngữ
khác
nhau
để
cùng
chỉ
về
một
vấn
đề.
Nếu
là
hai
loại
quyết
định
khác
nhau
thì
quyết
định
nào
là
quyết
định
xử
lý
sau
thanh
tra,
quyết
định
nào
là
quyết
định
xử
lý
về
thanh
tra
và
đối
tượng
thanh
tra
có
quyền
khiếu
nại
quyết
định
xử
lý
sau
thanh
tra
không?
Từ
những
phân
tích
trên,
có
thể
thấy
đối
tượng
khiếu
nại
trong
hoạt
động
thanh
tra
chưa
rõ,
vì:
-
Qui
định
về
đối
tượng
thanh
tra
trùng
lặp:
phần
lớn
các
quyết
định
xử
lí
về
thanh
tra
chính
là
quyết
định
của
người
tiến
hành
thanh
tra
ban
hành
trong
quá
trình
thanh
tra;
-
Quyết
định
xử
lí
sau
thanh
tra
không
được
qui
định
rõ
là
quyết
định
nào
và
hoàn
toàn
không
thuộc
đối
tượng
khiếu
nại.
Việc
xác
định
chính
xác
đối
tượng
khiếu
nại
có
ý
nghĩa
rất
quan
trọng,
vì
nếu
xác
định
đối
tượng
khiếu
nại
thiếu
hoặc
không
rõ
ràng
đồng
nghĩa
với
việc
người
khiếu
nại
sẽ
bị
mất
khả
năng
hoặc
gặp
khó
khăn
trong
việc
yêu
cầu
người
có
thẩm
quyền
bảo
vệ
quyền,
lợi
ích
của
mình
bị
xâm
phạm
bởi
quyết
định,
hành
vi
của
người
có
thẩm
quyền.
Để
bảo
đảm
quyền
khiếu
nại
của
đối
tượng
thanh
tra
thì
Luật
Thanh
tra
cần
quy
định
rõ
ràng
về
đối
tượng
khiếu
nại
theo
một
trong
hai
cách
sau:
Cách
thứ
nhất:
nếu
giữ
nguyên
quan
niệm
quyết
định
xử
lý
về
thanh
tra
như
trong
Luật
Thanh
tra
thì
đối
tượng
khiếu
nại
gồm
hành
vi
của
người
tiến
hành
thanh
tra
trong
quá
trình
thanh
tra
và
quyết
định
xử
lý
về
thanh
tra
(vì
quyết
định
xử
lý
về
thanh
tra
đã
bao
hàm
các
quyết
định
của
người
tiến
hành
thanh
tra
trong
quá
trình
thanh
tra);
đồng
thời,
Luật
Thanh
tra
thống
nhất
sử
dụng
một
thuật
ngữ
là
quyết
định
xử
lý
về
thanh
tra,
không
sử
dụng
thuật
ngữ
quyết
định
xử
lý
sau
thanh
tra.
Cách
thứ
hai:
sử
dụng
duy
nhất
một
trong
hai
thuật
ngữ
là
quyết
định
xử
lý
về
thanh
tra
hoặc
quyết
định
xử
lý
sau
thanh
tra
để
chỉ
các
quyết
định
được
ban
hành
trên
cơ
sở
kết
luận
thanh
tra
và
để
thực
hiện
kết
luận
thanh
tra.
Như
vậy,
thuật
ngữ
này
có
nghĩa
khác
với
quyết
định
xử
lý
về
thanh
tra
hiện
đang
sử
dụng
trong
Luật
Thanh
tra.
Theo
đó,
các
quyết
định
được
ban
hành
trong
quá
trình
thanh
tra
để
thực
hiện
hoạt
động
thanh
tra
như
quyết
định
thanh
tra,
quyết
định
thu
hồi
tài
sản…
không
nằm
trong
phạm
vi
khái
niệm
quyết
định
xử
lý
về
(hoặc
sau)
thanh
tra.
Theo
cách
này,
đối
tượng
khiếu
nại
gồm
các
hành
vi,
quyết
định
của
người
tiến
hành
thanh
tra
trong
quá
trình
thanh
tra
và
các
quyết
định
xử
lý
về
(hoặc
sau)
thanh
tra.
2.
Quyền
giải
trình
của
đối
tượng
thanh
tra
Trong
các
quan
hệ
pháp
luật
nói
chung,
nếu
xét
theo
quyền
và
nghĩa
vụ
thì
các
quan
hệ
đều
được
xây
dựng
và
thực
hiện
trên
nguyên
tắc
bình
đẳng
về
quyền
và
nghĩa
vụ
giữa
các
bên
chủ
thể
đối
với
nhau.
Tuy
nhiên,
xét
cụ
thể
về
từng
khía
cạnh
thì
trong
rất
nhiều
quan
hệ
pháp
luật
có
một
bên
ở
thế
yếu
hơn
so
với
bên
còn
lại.
Người
ở
thế
yếu
không
nhất
thiết
phải
là
người
nghèo,
người
khuyết
tật,
người
có
hoàn
cảnh
đặc
biệt
khó
khăn
mà
nói
chung
họ
là
người
mà
trong
những
hoàn
cảnh
giống
nhau
khi
tham
gia
một
quan
hệ
pháp
luật
họ
gặp
bất
lợi
hơn
so
với
người
khác
[2].
Trong
quan
hệ
pháp
luật
hành
chính
nói
chung,
quan
hệ
thanh
tra
nói
riêng,
đối
tượng
thanh
tra
(bên
phục
tùng
quyền
lực
nhà
nước)
luôn
ở
thế
yếu
hơn
so
với
bên
thanh
tra
(bên
được
sử
dụng
quyền
lực
nhà
nước).
Áp
đặt
ý
chí
của
bên
sử
dụng
quyền
lực
nhà
nước
đối
với
bên
kia
cũng
là
đặc
trưng
của
quan
hệ
pháp
luật
hành
chính.
Để
giảm
thiểu
sự
chủ
quan,
quan
liêu
trong
quan
hệ
pháp
luật
hành
chính,
nhiều
trường
hợp
pháp
luật
quy
định
bên
bị
áp
đặt
ý
chí
có
quyền
giải
trình
về
những
vấn
đề
nhất
định
để
bảo
vệ
quyền,
lợi
ích
của
mình.
Điều
92
Luật
Thanh
tra
quy
định
đối
tượng
thanh
tra
có
quyền
giải
trình
về
vấn
đề
có
liên
quan
đến
nội
dung
thanh
tra.
Thông
qua
việc
giải
trình,
đối
tượng
thanh
tra
có
thể
cung
cấp
thêm
thông
tin,
chứng
cứ,
làm
rõ
những
khía
cạnh
khác
nhau
liên
quan
đến
quá
trình,
kết
quả
thực
hiện
chính
sách,
pháp
luật,
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
của
mình
liên
quan
đến
nội
dung
thanh
tra,
nhất
là
khi
thấy
nhận
định,
kết
luận
thanh
tra
không
phù
hợp
thực
tế,
gây
bất
lợi
cho
mình
[3].
Mặc
dù
quyền
giải
trình
là
quyền
đầu
tiên
trong
3
quyền
của
đối
tượng
thanh
tra
được
quy
định
trong
Điều
này
(cùng
với
quyền
khiếu
nại,
quyền
đòi
bồi
thường
thiệt
hại)
nhưng
trong
toàn
bộ
nội
dung
của
Luật
Thanh
tra
không
có
quy
định
nào
về
việc
thực
hiện
quyền
giải
trình,
như:
khi
nào
thì
được
giải
trình,
giải
trình
với
ai,
phương
thức
thực
hiện
quyền
giải
trình
như
thế
nào,
nếu
người
tiến
hành
thanh
tra
không
tạo
điều
kiện
cho
đối
tượng
thanh
tra
thực
hiện
quyền
giải
trình
thì
có
phải
chịu
trách
nhiệm
gì
không…
Cùng
với
Điều
92
quy
định
về
quyền
giải
trình
thì
Luật
Thanh
tra
còn
có
các
Điều
75,
80,
81,
82,
83
cũng
quy
định
về
giải
trình,
nhưng
đó
đều
là
quy
định
về
quyền
của
người
ra
quyết
định
thanh
tra,
Trưởng
đoàn
thanh
tra,
thành
viên
khác
của
Đoàn
thanh
tra
yêu
cầu
đối
tượng
thanh
tra
giải
trình
về
vấn
đề
liên
quan
đến
nội
dung
thanh
tra.
Tức
là,
giải
trình
trong
các
quy
định
này
là
nghĩa
vụ
của
đối
tượng
thanh
tra.
Đối
tượng
thanh
tra
phải
giải
trình
khi
người
tiến
hành
thanh
tra
yêu
cầu.
Trong
khi
đó,
Điều
93
Luật
Thanh
tra
quy
định
về
các
nghĩa
vụ
của
đối
tượng
thanh
tra
thì
không
quy
định
đối
tượng
thanh
tra
có
nghĩa
vụ
giải
trình.
Từ
đó
có
thể
thấy,
Luật
Thanh
tra
dành
hẳn
một
điều
quy
định
về
nghĩa
vụ
của
đối
tượng
thanh
tra
nhưng
không
có
nghĩa
vụ
giải
trình,
trong
khi
rất
nhiều
quy
định
trong
Luật
này
lại
thể
hiện
giải
trình
là
nghĩa
vụ
của
đối
tượng
thanh
tra.
Ngược
lại,
trong
điều
quy
định
về
quyền
của
đối
tượng
thanh
tra
có
quy
định
rõ
ràng
đối
tượng
thanh
tra
có
quyền
giải
trình
nhưng
trong
toàn
bộ
nội
dung
của
Luật
này
lại
không
có
quy
định
về
việc
thực
hiện
và
bảo
đảm
quyền
giải
trình.
Có
thể
nói,
quyền
giải
trình
của
đối
tượng
thanh
tra
là
cần
thiết
và
nghĩa
vụ
giải
trình
cũng
cần
thiết,
vì
nghĩa
vụ
này
giúp
người
tiến
hành
thanh
tra
đánh
giá,
kết
luận
nội
dung
thanh
tra
nhanh
chóng,
chính
xác.
Do
vậy,
Luật
Thanh
tra
cần
có
cả
các
quy
định
về
quyền
và
nghĩa
vụ
giải
trình
của
đối
tượng
thanh
tra,
nhưng
nên
quy
định
một
cách
đồng
bộ:
Thứ
nhất,
bổ
sung
nghĩa
vụ
của
đối
tượng
“giải
trình
về
nội
dung
thanh
tra
khi
người
tiến
hành
thanh
tra
yêu
cầu”
vào
Điều
93.
Thứ
hai,
bổ
sung
các
quy
định
về
thực
hiện
quyền
giải
trình
và
bảo
đảm
quyền
giải
trình
của
đối
tượng
thanh
tra,
gồm:
trường
hợp
được
thực
hiện
quyền
giải
trình;
phương
thức
thực
hiện
quyền
giải
trình;
trách
nhiệm
tiếp
nhận
giải
trình
khi
đối
tượng
thanh
tra
thực
hiện
việc
giải
trình;
trách
nhiệm
của
người
tiếp
nhận
giải
trình
trong
trường
hợp
cố
tình
cản
trở
việc
thực
hiện
quyền
giải
trình
hay
không
xem
xét
ý
kiến
giải
trình
dẫn
đến
hậu
quả
xâm
phạm
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
đối
tượng
thanh
tra./.
[1] Khoản
16
Điều
2
Luật
Thanh
tra
năm
2022.
[2] Tưởng
Duy
Lượng, Bảo
đảm
quyền
lợi
của
người
yếu
thế
trong
quan
hệ
hợp
đồng,
Tạp
chí
Nghiên
cứu
lập
pháp
số
21(397),
tháng
11/2019;
Đào
Duy
An, Chứng
minh
tính
hợp
pháp
-
Yếu
tố
cần
thiết
để
bảo
đảm
quyền
lợi
của
nhóm
chủ
thể
yếu
thế
trong
giao
dịch
dân
sự
về
bất
động
sản,
Tạp
chí
điện
tử
Luật
sư
Việt
Nam,
https://lsvn.vn/chung-minh-tinh-hop-phap-yeu-to-can-thiet-de-bao-dam-quyen-loi-cua-nhom-chu-the-yeu-the-trong-giao-dich-dan-su-ve-bat-dong-san1669740630.html.
[3] Nguyễn
Ngọc
Bích,
Bảo
vệ
đối
tượng
thanh
tra
trong
hoạt
động
thanh
tra,
Tạp
chí
Nghiên
cứu
lập
pháp,
số
17(465),
tháng
9/2022.