Cách
đây
gần
10
năm,
vấn
đề
hợp
nhất
cơ
quan
thanh
tra
nhà
nước
và
cơ
quan
kiểm
tra
đảng
đã
được
đặt
ra.
Trong
Đề
án
01-ĐA/UBKTTW
ngày
8/7/2009
của
Ủy
ban
Kiểm
tra
(UBKT)
Trung
ương
về
Chiến
lược
công
tác
kiểm
tra,
giám
sát
của
Đảng
đến
năm
2020
đã
đưa
ra
vấn
đề:
“…hợp
nhất
cơ
quan
UBKT
với
cơ
quan
Thanh
tra
và
Văn
phòng
Ban
chỉ
đạo
phòng,
chống
tham
nhũng”
[1].
Mục
đích
của
việc
hợp
nhất
này
là
hướng
đến
việc
tinh
giảm
biên
chế,
tổ
chức
bộ
máy
tinh
gọn,
thống
nhất
sự
lãnh
đạo,
chỉ
đạo
của
cấp
ủy,
quản
lý,
điều
hành
của
chính
quyền;
đặc
biệt
là
khắc
phục
những
chức
năng,
nhiệm
vụ
bị
chồng
chéo
giữa
hai
cơ
quan
này.
Tiếp
đó,
Kết
luận
Số
64-KL/TW
Hội
nghị
Trung
ương
lần
thứ
7,
khóa
XI
về
"Một
số
vấn
đề
về
tiếp
tục
đổi
mới,
hoàn
thiện
hệ
thống
chính
trị
từ
Trung
ương
đến
cơ
sở"
tiếp
tục
đưa
vấn
đề
hoàn
thiện,
tổ
chức
lại
bộ
máy
nhà
nước
với
yêu
cầu
“xây
dựng
tổ
chức
bộ
máy
đồng
bộ,
tinh
gọn,
có
tính
ổn
định,
phù
hợp
với
chức
năng,
nhiệm
vụ;
xây
dựng
đội
ngũ
cán
bộ,
công
chức
có
số
lượng
hợp
lý,
có
phẩm
chất
chính
trị,
đạo
đức,
trình
độ,
năng
lực
chuyên
môn
nghiệp
vụ
ngày
càng
cao,
đáp
ứng
được
yêu
cầu
thực
hiện
nhiệm
vụ
chính
trị”
[2].
Năm
2017,
Nghị
quyết
số
18-NQ/TW,
Nghị
quyết
Hội
nghị
lần
thứ
6
Ban
Chấp
hành
Trung
ương
Khóa
XII
về
“Một
số
vấn
đề
về
tiếp
tục
đổi
mới,
sắp
xếp
tổ
chức
bộ
máy
của
hệ
thống
chính
trị
tinh
gọn,
hoạt
động
hiệu
lực,
hiệu
quả”
đã
đặt
ra
mục
tiêu
tổng
quát
là
“Tiếp
tục
đổi
mới,
sắp
xếp
tổ
chức
bộ
máy
của
hệ
thống
chính
trị
tinh
gọn,
hoạt
động
hiệu
lực,
hiệu
quả
và
phù
hợp
với
thể
chế
kinh
tế
thị
trường
định
hướng
xã
hội
chủ
nghĩa
nhằm
tăng
cường
vai
trò
lãnh
đạo
của
Đảng”.
Ngày
07/8/2018,
Bộ
Chính
trị
đã
có
Kết
luận
số
34-KL/TW
về
thực
hiện
một
số
mô
hình
thí
điểm
theo
Nghị
quyết
số
18-NQ/TW,
trong
đó
đã
chỉ
ra
những
định
hướng
cơ
bản
trong
việc
hợp
nhất
cơ
quan
thanh
tra
nhà
nước
và
cơ
quan
kiểm
tra
đảng.
Tinh
thần
của
các
nghị
quyết,
kết
luận
nêu
trên
cho
thấy,
việc
thực
hiện
hợp
nhất
cơ
quan
thanh
tra
nhà
nước
và
cơ
quan
kiểm
tra
đảng
là
thực
hiện
chủ
trương
sắp
xếp,
tinh
gọn
bộ
máy,
tránh
trùng
lặp,
chồng
chéo
trong
thực
hiện
chức
năng,
nhiệm
vụ
của
hệ
thống
chính
trị.
Việc
thực
hiện
hợp
nhất
hai
cơ
quan
này
cũng
nằm
trong
chủ
trương
chung
thí
điểm
hợp
nhất
một
số
cơ
quan
tham
mưu,
giúp
việc
của
cấp
ủy
với
cơ
quan
chuyên
môn
(hoặc
tham
mưu)
thuộc
Ủy
ban
nhân
dân
(UBND).
Việc
hợp
nhất
được
thực
hiện
“thí
điểm”
tại
những
nơi
“có
đủ
điều
kiện”
và
chỉ
thực
hiện
ở
cấp
tỉnh,
cấp
huyện.
2.
Thực
tiễn
triển
khai
thí
điểm
hợp
nhất cơ
quan thanh
tra nhà
nước và
cơ
quan kiểm
tra đảng
Thực
hiện
chủ
trương
của
Đảng,
một
số
địa
phương
đã
tiến
hành
thí
điểm
hợp
nhất
cơ
quan
thanh
tra
và
cơ
quan
kiểm
tra
đảng
[3] ở
những
cấp
độ
khác
nhau;
có
nơi
tiến
hành
hợp
nhất
ở
cấp
tỉnh
như
Hà
Giang,
nhưng
về
cơ
bản
các
địa
phương
mới
chỉ
tiến
hành
hợp
nhất
ở
cấp
huyện.
Quá
trình
hợp
nhất
và
việc
triển
khai
hoạt
động
sau
hợp
nhất
đang
đặt
ra
nhiều
vấn
đề
mới
cần
giải
quyết.
Xin
được
khái
quát
trên
một
số
phương
diện
như
sau:
Thứ
nhất, chủ
trương
hợp
nhất
đều
được cán
bộ
công
chức
(CBCC) biết
đến
nhưng
chưa
thực
sự
hiểu
rõ.
Thực
tế
cho
thấy
[4],
chủ
trương
hợp
nhất
được
đại
đa
số
CBCC
biết
đến
hoặc
nghe
nói
đến,
nhưng
chưa
thực
sự
được
hiểu
rõ,
hiểu
thống
nhất
trong
đội
ngũ
CBCC
thanh
tra,
kiểm
tra.
Đa
số
CBCC
đều
đồng
nhất
khái
niệm
giữa
“hợp
nhất”
với
“sáp
nhập”
và
“nhất
thể
hóa”
chức
danh
người
đứng
đầu
hai
cơ
quan
và
đều
mang
nghĩa
là
“gộp
cơ
học”
hai
cơ
quan
thuộc
hai
hệ
thống
khác
nhau
vào
thành
một.
Việc
thí
điểm
hợp
nhất
được
thực
hiện
dựa
trên
kế
hoạch
của
Tỉnh
ủy
và
Đề
án
của
Thường
vụ
tỉnh
ủy,
nội
dung
của
kế
hoạch
và
đề
án
sẽ
trên
cơ
sở
Nghị
quyết
số
18,
Kết
luận
số
34
và
tình
hình
thực
tế
của
từng
địa
phương.
Việc
hợp
nhất
ở
một
số
địa
phương
không
giống
nhau
và
không
thống
nhất
trong
cách
thức
thực
hiện.
Một
số
nơi
tiến
hành
hợp
nhất
ngay
(Hà
Giang,
Trà
Vinh,
Yên
Bái),
một
số
nơi
tiến
hành
theo
lộ
trình
chậm
hơn,
ban
đầu
là
nhất
thể
hóa
chức
danh
người
đứng
đầu,
sau
một
thời
gian
mới
tiến
hành
hợp
nhất
(Quảng
Ninh).
Việc
thí
điểm
được
các
địa
phương
tiến
hành
thận
trọng,
những
nội
dung
được
hướng
dẫn
trong
các
văn
bản
của
Đảng
sẽ
thực
hiện
đúng
theo
hướng
dẫn,
những
nội
dung
chưa
được
hướng
dẫn,
địa
phương
sẽ
tùy
tình
hình
thực
tế
và
có
sự
tham
khảo
ở
địa
phương
đã
thực
hiện
trước
đó.
Tuy
nhiên,
vì
là
“tùy
tình
hình
thực
tế”
nên
lộ
trình,
cách
thức
tiến
hành
là
không
giống
nhau
do
nhận
thức
không
thống
nhất.
Thứ
hai,
vấn
đề
hợp
nhất
chỉ
dừng
lại
ở
chủ
trương
chung
mà
chưa
được
hướng
dẫn
và
thể
chế
hóa
thành
các
quy
phạm
pháp
luật
Vấn
đề
hợp
nhất
cơ
quan
thanh
tra
nhà
nước
với
cơ
quan
UBKT
đảng
được
đề
cập
chung
trong
chủ
trương
thí
điểm
hợp
nhất
một
số
cơ
quan
khác
trong
Nghị
quyết
số
18
và
do
vậy,
chưa
có
hướng
dẫn
cụ
thể,
riêng
biệt
cho
hợp
nhất
cơ
quan
thanh
tra
nhà
nước
và
cơ
quan
UBKT
đảng.
Nội
dung
hướng
dẫn
thí
điểm
hợp
nhất
cơ
quan
thanh
tra
nhà
nước
và
cơ
quan
UBKT
đảng
trong
Nghị
quyết
số
18
và
Kết
luận
số
34
chỉ
giới
hạn
ở
một
số
vấn
đề
khá
chung
chung,
mang
tính
định
hướng,
nguyên
tắc
chỉ
đạo
chung
về
tổ
chức
bộ
máy,
những
vấn
đề
cụ
thể,
chi
tiết
liên
quan
đến
chỉ
đạo,
điều
hành,
tác
nghiệp
hay
thực
thi
chức
năng,
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
trong
thanh
tra,
kiểm
tra
chưa
được
đề
cập
đến.
Thực
tế
cho
thấy,
việc
thí
điểm
hợp
nhất
được
thực
hiện
hoàn
toàn
trên
cơ
sở
Nghị
quyết
số
18
và
sau
này
là
Kết
luận
số
34
và
chỉ
đạo
của
tỉnh
ủy
căn
cứ
vào
thực
tế
của
địa
phương.
Việc
thiếu
vắng
căn
cứ
pháp
lý
và
hướng
dẫn
cụ
thể
từ
cơ
quan
Trung
ương
đã
dẫn
đến
những
khó
khăn,
vướng
mắc
trong
quá
trình
thực
hiện
và
cũng
phần
nào
làm
giảm
hiệu
quả
của
việc
thí
điểm
hợp
nhất
trên
thực
tế.
Thứ
ba,
thực
tiễn
thí
điểm
đã
đạt
được
kết
quả
nhất
định
nhưng
vẫn
còn
nhiều
khó
khăn,
vướng
mắc
cần
tháo
gỡ
Qua
hơn
hai
năm
thực
hiện
Nghị
quyết
số
18
và
hơn
một
năm
thực
hiện
Kết
luận
số
34,
đến
thời
điểm
cuối
năm
2019
đã
có
8
tỉnh,
thành
phố
trực
thuộc
Trung
ương
thực
hiện
thí
điểm
hợp
nhất.
Trong
đó,
Hà
Giang
thực
hiện
hợp
nhất
ở
cấp
tỉnh
trước,
sau
đó
là
cấp
huyện;
còn
các
địa
phương
khác
mới
hợp
nhất
cấp
huyện
và
chưa
hợp
nhất
cấp
tỉnh.
Theo
đánh
của
một
số
địa
phương,
việc
thí
điểm
hợp
nhất
đã
đạt
kết
quả
tiêu
biểu
đó
là:
(i)
Thu
gọn
bộ
máy,
giảm
số
lượng
lãnh
đạo.
Giảm
chức
lãnh
đạo
(01
cấp
trưởng
và
02
cấp
phó).
Từ
việc
thu
gọn
bộ
máy,
giảm
số
phòng,
lãnh
đạo
phòng
đến
giảm
đầu
mối
liên
hệ
công
việc.
(ii)
Mô
hình
cơ
quan
hợp
nhất
đã
tạo
được
sự
thống
nhất
trong
lãnh
đạo,
chỉ
đạo,
tạo
được
sự
thống
nhất
giữa
hoạt
động
thanh
tra
của
chính
quyền
và
kiểm
tra,
giám
sát
của
Đảng,
rút
ngắn
quy
trình,
khắc
phục
trùng
lặp,
bỏ
được
các
khâu
trung
gian
trong
hoạt
động
thanh
tra,
kiểm
tra;
kế
thừa
được
kết
quả
và
tạo
sự
đồng
bộ
trong
xử
lý
kết
quả
thanh
tra,
kiểm
tra,
xử
lý
trách
nhiệm
của
tổ
chức,
cá
nhân
[5].
Bên
cạnh
một
số
kết
quả
đạt
được,
việc
thực
hiện
thí
điểm
hợp
nhất
cũng
gặp
những
khó
khăn,
vướng
mắc
sau
đây:
-
Về
địa
vị
pháp
lý
của
cơ
quan
sau
hợp
nhất
trong
hệ
thống
chính
trị
Cơ
quan
sau
hợp
nhất
thuộc
một
ban
của
Đảng
(UBKT).
Nghĩa
là,
sau
hợp
nhất,
không
còn
một
thực
thể
là
“cơ
quan
thanh
tra”
trong
bộ
máy
nhà
nước,
chức
năng
quản
lý
nhà
nước
về
công
tác
thanh
tra,
tiếp
công
dân,
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo
và
phòng,
chống
tham
nhũng
vẫn
được
đội
ngũ
cán
bộ
thanh
tra
viên
trước
đây
(nay
thuộc
cơ
quan
UBKT-thanh
tra
thực
hiện
nhưng
trên
danh
nghĩa
là
cơ
quan
của
Đảng.
Bên
Đảng,
cơ
quan
UBKT
vẫn
tồn
tại
nhưng
giờ
có
phạm
vi,
quy
mô
tổ
chức
bộ
máy
lớn
hơn,
chức
năng
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
sẽ
rộng
hơn
do
gộp
thêm
cả
phần
của
cơ
quan
thanh
tra
trước
đây).
Ở
những
địa
phương
tiến
hành
thí
điểm
đồng
loạt
cấp
huyện
(như
Yên
Bái),
hay
cấp
tỉnh
(như
ở
Hà
Giang)
thì
cơ
quan
thanh
tra
cấp
huyện
sẽ
không
còn,
nhưng
chức
năng
của
cơ
quan
thanh
tra
vẫn
được
thực
hiện.
Hệ
quả
là,
sự
chỉ
đạo
về
chuyên
môn,
nghiệp
vụ,
hay
đánh
giá
hiệu
quả
hoạt
động
trong
hệ
thống
cơ
quan
thanh
tra
bị
ảnh
hưởng
khá
nặng
nề.
Bởi
lẽ,
với
cấp
tỉnh
như
ở
Hà
Giang,
mối
liên
hệ
giữa
Thanh
tra
Chính
phủ
và
hoạt
động
thanh
tra
ở
Hà
Giang
gặp
khó
khăn
do
địa
phương
này
không
còn
cơ
quan
thanh
tra
cấp
tỉnh.
Việc
đánh
giá
hiệu
quả
công
tác
hay
bình
xét
thi
đua
cuối
năm
sẽ
không
thể
thực
hiện
ở
cấp
tỉnh
Hà
Giang
trong
khi
hệ
thống
tổ
chức
bên
Đảng
chưa
có
đủ
căn
cứ
pháp
lý,
chính
trị
để
đánh
giá
hiệu
quả,
chất
lượng
hoạt
động
thanh
tra
do
chỉ
có
chức
năng,
nhiệm
vụ
với
công
tác
kiểm
tra
bên
Đảng.
Vướng
mắc
này
cũng
xảy
ra
với
Yên
Bái
khi
cơ
quan
thanh
tra
cấp
tỉnh
rất
khó
để
giữ
mối
liên
hệ
trong
hệ
thống
với
hoạt
động
thanh
tra
cấp
huyện.
Bên
cạnh
thực
tế
sau
khi
hợp
nhất,
việc
một
ban
của
Đảng
thực
hiện
chức
năng
quản
lý
nhà
nước
(vốn
thuộc
chức
năng
của
hành
pháp)
trong
khi
bộ
máy
nhà
nước
sẽ
bị
thu
hẹp
lại
(do
khuyết
một
chức
năng)
thì
một
câu
hỏi
lớn
cho
vấn
đề
này
là
tới
đây,
khi
thực
hiện
Luật
Phòng
chống
tham
nhũng
năm
năm
2018
và
Nghị
định
số
59/2019/NĐ-CP
về
nội
dung
kiểm
soát
thu
nhập
tài
sản,
thì
chức
năng
kiểm
soát
tài
sản
thu
nhập
được
quy
định
cho
cơ
quan
thanh
tra
sẽ
do
chủ
thể
nào
thực
hiện
ở
những
địa
phương
đã
hợp
nhất?
Nếu
do
bộ
phận
thực
hiện
chức
năng
thanh
tra
trong
cơ
quan
UBKT-Thanh
tra
(UBKT-TT)
thực
hiện
thì
vẫn
do
Đảng
thực
hiện.
Thực
tế
này
đặt
ra
câu
hỏi
lớn
về
kiểm
soát
quyền
lực
nhà
nước
và
tính
hệ
thống
trong
tổ
chức
bộ
máy
của
hệ
thống
chính
trị
khi
cùng
với
việc
hợp
nhất
các
cơ
quan
khác
nữa
theo
tinh
thần
Nghị
quyết
số
18
thì
tổ
chức
bộ
máy
trong
hệ
thống
Đảng
sẽ
mở
rộng
ra
rất
nhiều,
trong
khi
hệ
thống
tổ
chức
bộ
máy
nhà
nước
sẽ
thu
hẹp
lại.
-
Mối
liên
hệ
chỉ
đạo,
điều
hành
hoạt
động
thanh
tra
Mô
hình
hợp
nhất
được
thí
điểm
thực
hiện
ở
một
số
địa
phương.
Nghĩa
là,
việc
hợp
nhất
giữa
hai
cơ
quan
mới
chỉ
xuất
phát
từ
“cơ
sở
lý
luận”
mà
thiếu
cơ
sở
thực
tiễn. Hiện
nay,
chưa
có
tổng
kết,
đánh
giá
hiệu
quả
về
mô
hình
này.
Đây
là
mô
hình
mới
chưa
tồn
tại
trong
lịch
sử,
bản
thân
các
địa
phương
thực
hiện
là
"thí
điểm"
nên
quá
trình
triển
khai
trên
thực
tế
là
vừa
làm,
vừa
rút
kinh
nghiệm;
nhận
thức
chưa
thống
nhất
nên
mỗi
nơi
làm
theo
một
cách
khác
nhau.
Mô
hình
này
lại
chưa
được
thực
hiện
đồng
bộ
từ
Trung
ương
đến
địa
phương
(ở
cấp
Trung
ương,
Thanh
tra
Chính
phủ
và
Ủy
Ban
KTTW
chưa
từng
có
cuộc
họp
chung
để
thảo
luận
về
vấn
đề
này)
nên
dẫn
đến
việc
cơ
quan
sau
hợp
nhất
chịu
sự
chỉ
đạo,
điều
hành,
hướng
dẫn
về
công
tác
chuyên
môn,
nghiệp
vụ
của
nhiều
hệ
thống;
quá
trình
hoạt
động
phải
báo
cáo
nhiều
cơ
quan
khác
nhau
gây
khó
khăn,
vướng
mắc
cho
quá
trình
thực
hiện.
Sau
khi
hợp
nhất,
người
đứng
đầu
cơ
quan
hợp
nhất
là
Trưởng
cơ
quan
UBKT,
thanh
tra.
Cơ
quan
UBKT,
thanh
tra
chịu
sự
chỉ
đạo
trực
tiếp
của
Tỉnh
ủy,
Huyện
ủy
với
tư
cách
là
cơ
quan
tham
mưu
cho
cấp
ủy.
Vấn
đề
đặt
ra
là
quá
trình
thực
hiện
chức
năng
thanh
tra
của
cơ
quan
sau
hợp
nhất
sẽ
chịu
sự
chỉ
đạo
của
Chủ
tịch
Ủy
ban
nhân
dân
(UBND)
hay
Bí
thư?
Ai
là
người
có
thẩm
quyền
ban
hành
chương
trình,
kế
hoạch
thanh
tra,
quyết
định
thành
lập
đoàn
thanh
tra,
ban
hành
kết
luận
thanh
tra,
quyết
định
thu
hồi
sau
thanh
tra?
Quá
trình
xây
dựng,
báo
cáo,
trình
văn
bản
phải
gửi
cho
cả
Chủ
tịch
UBND
và
Bí
thư,
vậy
nếu
giữa
hai
chủ
thể
đó
có
sự
bất
đồng
ý
kiến
chỉ
đạo
thì
ý
kiến
của
chủ
thể
nào
sẽ
đóng
vai
trò
quyết
định
khi
Bí
thư
Tỉnh
ủy
(huyện
ủy)
là
người
chỉ
đạo
trực
tiếp
cơ
quan
UBKT,
thanh
tra
theo
quy
định
của
Đảng
nhưng
Chủ
tịch
UBND
cấp
tỉnh
(huyện)
là
chủ
thể
có
thẩm
quyền
chỉ
đạo
hoạt
động
thanh
tra
theo
quy
định
của
Luật?
Một
vấn
đề
nữa
đặt
ra
là,
theo
quy
định
của
pháp
luật
về
tố
tụng
hành
chính,
khi
quyết
định
hoặc
kết
luận
thanh
tra
bị
khiếu
kiện
đến
Tòa
án,
người
đại
diện
theo
pháp
luật
của
cơ
quan
ban
hành
quyết
định
đó
phải
tham
dự
phiên
Tòa,
lúc
này
người
đại
diện
cơ
quan
UBKT,
thanh
tra
là
đồng
chí
Chủ
nhiệm
UBKT,
Chủ
nhiệm
cơ
quan
UBKT
-
TT.
Vậy
chủ
thể
này
có
phải
tham
dự
phiên
Tòa
khiếu
kiện
hành
chính
hay
không?
-
Về
tổ
chức
nội
bộ
Các
cơ
quan
sau
hợp
nhất,
người
đứng
đầu/thủ
trưởng
cơ
quan
sẽ
là
Chủ
nhiệm
cơ
quan
UBKT,
Chánh
thanh
tra
sẽ
là
phó
thủ
trưởng.
Tuy
nhiên,
trong
quá
trình
phân
công
chỉ
đạo,
điều
hành
hoạt
động
thanh
tra
thì
Chánh
thanh
tra/phó
thủ
trưởng
cơ
quan
sẽ
thực
hiện
nhiệm
vụ
này.
Vấn
đề
đặt
ra
là,
vị
trí
phó
thủ
trưởng
cơ
quan
–
Chánh
thanh
tra
có
thẩm
quyền
và
chuyên
môn
trong
chỉ
đạo
điều
hành
hoạt
động
thanh
tra
nhưng
sẽ
không
có
thẩm
quyền
quyết
định
kết
quả
hoạt
động
thanh
tra,
những
kiến
nghị
của
Đoàn
thanh
tra
mà
thẩm
quyền
này
thuộc
về
thủ
trưởng
cơ
quan
–
Chủ
nhiệm
cơ
quan
UBKT.
Đây
là
vấn
đề
khó
khăn,
vướng
mắc
trong
thực
tiễn,
đặc
biệt
trong
trường
hợp
ý
kiến
của
phó
thủ
trưởng
cơ
quan
–
Chánh
thanh
tra
không
thống
nhất
với
ý
kiến
của
thủ
trưởng
cơ
quan
–
Chủ
nhiệm
cơ
quan
UBKT.
Thực
tiễn
các
địa
phương
cho
thấy,
sau
hợp
nhất,
vấn
đề
tinh
giản
biên
chế
được
đặt
ra
ở
hầu
hết
các
cơ
quan.
Sau
hợp
nhất,
số
lượng
CBCC
của
cơ
quan
UBKT
–
TT
sẽ
tăng
lên
nhưng
chỉ
tiêu
biên
chế
không
tăng,
các
cơ
quan
phải
tinh
giản.
Thực
tế
là
các
cơ
quan
chủ
yếu
tinh
giản
công
chức
thuộc
biên
chế
của
cơ
quan
thanh
tra
trước
hợp
nhất.
Ở
cấp
huyện,
công
chức
thanh
tra
được
điều
động,
luân
chuyển
hoặc
bổ
nhiệm
vào
một
vị
trí
khác
hoặc
điều
động
xuống
xã
đảm
nhận
các
vị
trí
khác
nhau.
Rất
nhiều
huyện
(ở
Yên
Bái,
Hà
Giang,
Trà
Vinh),
sau
hợp
nhất
chỉ
còn
duy
nhất
chánh
thanh
tra
còn
công
tác
ở
cơ
quan
KT-TT
sau
hợp
nhất.
Vấn
đề
đặt
ra
là
chức
năng
thanh
tra
vẫn
phải
thực
hiện
bởi
cơ
quan
KT-TT
sau
hợp
nhất
nhưng
công
chức
thanh
tra
thì
không
còn
và
sẽ
giao
công
chức
của
cơ
quan
UBKT
trước
đây
thực
hiện.
Vì
vậy,
việc
đảm
bảo
chất
lượng,
hiệu
quả
hoạt
động
thanh
tra
(đặc
biệt
là
thanh
tra
cấp
huyện)
là
vấn
đề
còn
nhiều
trăn
trở.
-
Về
chế
độ,
chính
sách
cho
CBCC
và
bồi
dưỡng
chuyên
môn,
nghiệp
vụ
Sau
hợp
nhất,
chế
độ,
chính
sách
cho
CBCC
đều
được
các
cấp
lãnh
đạo
quan
tâm
xử
lý,
vấn
đề
là
việc
áp
dụng
phải
theo
quy
định
của
Đảng,
pháp
luật
của
Nhà
nước
nên
rất
khó
để
đảm
bảo
sự
công
bằng
cho
tất
cả
CBCC.
Vấn
đề
là
việc
chuyển
biên
chế
từ
khối
chính
quyền
sang
khối
Đảng;
xếp
ngạch,
nâng
ngạch
công
chức
cho
cán
bộ
kiểm
tra,
thanh
tra
theo
hướng
một
công
chức
sẽ
cùng
lúc
giữ
hai
ngạch
kiểm
tra
viên
và
thanh
tra
viên
chưa
có
tiền
lệ
và
chưa
được
hướng
dẫn
cụ
thể
nên
thực
tế
địa
phương
rất
khó
triển
khai
thực
hiện.
-
Công
tác
chỉ
đạo,
điều
hành
Vướng
mắc
trong
chỉ
đạo
điều
hành
thể
hiện
ở
việc
lựa
chọn
thể
thức
văn
bản
và
sử
dụng
con
dấu.
Trước
hợp
nhất,
cơ
quan
UBKT
là
cơ
quan
tham
mưu
cho
cấp
ủy,
UBKT
nên
văn
bản
là
văn
bản
tham
mưu.
Một
số
nơi,
cơ
quan
UBKT
chưa
có
con
dấu
riêng
mà
dùng
chung
với
dấu
của
UBKT.
Cơ
quan
thanh
tra
là
cơ
quan
chuyên
môn
thuộc
UBND
có
chức
năng
tham
mưu,
giúp
UBND
thực
hiện
chức
năng
quản
lý
nhà
nước
về
công
tác
thanh
tra,
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo;
thực
hiện
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
thanh
tra,
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo
và
phòng,
chống
tham
nhũng
trong
phạm
vi
quản
lý
nhà
nước
của
UBND;
có
tư
cách
pháp
nhân,
có
con
dấu
và
tài
khoản
riêng.
Vậy
nên,
vấn
đề
đặt
ra
là,
sau
hợp
nhất,
với
những
văn
bản
mà
nội
dung
là
báo
cáo
về
hoạt
động
thanh
tra
thì:
+
Về
chủ
thể
có
thẩm
quyền
ký:
Nếu
do
thủ
trưởng
cơ
quan
(Chủ
nhiệm
UBKT)
ký
thì
sẽ
báo
cáo
Chủ
tịch
UBND
như
vậy
có
hợp
lý
không?
Khi
Chủ
nhiệm
UBKT
không
là
cấp
dưới
thuộc
quyền
quản
lý
của
Chủ
tịch
UBKT
về
mặt
tổ
chức
chính
quyền,
về
mặt
Đảng,
hai
chủ
thể
này
đều
là
thành
viên
trong
Ban
Thường
vụ
tỉnh
ủy/huyện
ủy.
+
Về
thể
thức
văn
bản:
Báo
cáo
về
việc
thực
hiện
chức
năng,
nhiệm
vụ
thanh
tra
của
cơ
quan
sẽ
theo
thể
thức
văn
bản
do
Luật
Thanh
tra
quy
định
và
sử
dụng
con
dấu
thanh
tra.
Báo
cáo
thực
hiện
chức
năng,
nhiệm
vụ
kiểm
tra
sẽ
theo
quy
định
của
Đảng
và
sử
dụng
con
dấu
của
UBKT.
Báo
cáo
về
hoạt
động
chung
của
cơ
quan
UBKT-TT
sẽ
theo
thể
thức
văn
bản
nào?
Và
sử
dụng
con
dấu
chung
của
cơ
quan?
Vậy
trong
nội
bộ
một
cơ
quan
mà
việc
quản
lý,
điều
hành
có
quá
nhiều
thể
thức
văn
bản
và
sử
dụng
nhiều
con
dấu
như
vậy
có
vấn
đề
vì
thủ
tục
hành
chính
rườm
rà,
thời
gian
xử
lý
công
việc
sẽ
kéo
dài.
Bên
cạnh
đó,
thực
tế
là
không
phải
lúc
nào
cũng
có
thể
tách
bạch
nội
dung
văn
bản
một
cách
rạch
ròi,
riêng
rẽ,
vậy
nên
mỗi
khi
cần
phải
ban
hành,
các
bộ
phận
chức
năng
sẽ
phải
xác
định
sử
dụng
thể
thức
văn
bản
nào,
con
dấu
gì…
nên
việc
thực
hiện
nhiệm
vụ
hàng
ngày
của
cơ
quan
sẽ
ảnh
hưởng
không
nhỏ.
Mục
tiêu
lớn
nhất
của
việc
hợp
nhất
là
nhằm
sắp
xếp
lại
tổ
chức
bộ
máy
của
hệ
thống
chính
trị
tinh
gọn,
hoạt
động
hiệu
lực,
hiệu
quả.
Tuy
nhiên,
thực
tế
thí
điểm
cho
thấy,
sau
hợp
nhất
số
lượng
chức
danh
lãnh
đạo
có
giảm,
đầu
mối
các
phòng
trong
tổ
chức
nội
bộ
có
giảm
do
ghép
cơ
học
các
phòng
vào
với
nhau,
số
biên
chế
có
tinh
giản
được
nhưng
chủ
yếu
là
theo
diện
đến
tuổi
nghỉ
hưu
hoặc
điều
động
đi
nơi
khác.
Do
vậy,
từ
góc
độ
kinh
tế
thì
có
tiết
kiệm
được
ngân
sách
nhà
nước
nhưng
không
đáng
kể.
Nhìn
tổng
thể
thì
việc
hợp
nhất
thời
gian
qua
mang
lại
kết
quả
nổi
bật
nhất
là
giúp
giảm
đầu
mối
thực
hiện
nhiệm
vụ,
nhưng
đó
là
giảm
cơ
học
do
việc
gộp
cơ
học
đầu
mối
các
cơ
quan
trước
hợp
nhất
chứ
chức
năng,
nhiệm
vụ
không
giảm.
Do
đó,
hiệu
lực,
hiệu
quả
trong
hoạt
động
thanh
tra,
kiểm
tra
chưa
thực
sự
có
sự
khác
biệt
so
với
trước
khi
hợp
nhất.
Có
thể
nói
rằng,
việc
hợp
nhất
cơ
quan
thanh
tra
nhà
nước
với
cơ
quan
kiểm
tra
đảng
là
nhiệm
vụ
khá
phức
tạp,
động
chạm
nhiều
mặt
từ
tư
tưởng
đến
thể
chế,
chính
sách,
đòi
hỏi
cần
nhiều
thời
gian,
công
sức
nghiên
cứu
kỹ
lưỡng.
Vì
vậy,
chúng
tôi
khuyến
nghị:
-
Tạm
dừng
việc
thí
điểm
hợp
nhất
để
tổng
kết
thí
điểm,
đánh
giá
lại
kết
quả
thực
hiện,
khó
khăn,
vướng
mắc
để
tìm
ra
nguyên
nhân
của
khó
khăn,
vướng
mắc
đó.
Hợp
nhất,
sáp
nhập,
nhất
thể
hóa
…
vì
mục
tiêu
tinh
gọn
bộ
máy
là
vấn
đề
lớn
cần
được
khảo
sát,
tổng
kết
thực
tiễn
kỹ
lưỡng
và
bàn
luận
thấu
đáo
để
có
được
những
biện
pháp,
cách
thức
thực
hiện
và
lộ
trình
rõ
ràng
cho
một
chủ
trương
lớn
của
Đảng
để
tạo
sự
đồng
thuận,
thống
nhất
về
nhận
thức
và
hành
động
trong
cả
hệ
thống
chính
trị.
Trên
cơ
sở
đó
sẽ
định
hướng
công
tác
thanh
tra,
kiểm
tra
trong
giai
đoạn
tiếp
theo.
-
Cần
nghiên
cứu,
làm
rõ
hơn
về
cơ
sở
lý
luận
và
pháp
lý
cho
việc
hợp
nhất.
Trong
đó,
cần
làm
rõ
về
mặt
lý
luận,
việc
nhất
thể
hóa
hay
hợp
nhất
hiện
nay
có
đảm
bảo
kiểm
soát
quyền
lực
cá
nhân
người
đứng
đầu
không?
-
Cần
xác
định
rõ,
cụ
thể
sự
giống
và
khác
nhau
giữa
hợp
nhất
cơ
quan
thanh
tra
nhà
nước
với
cơ
quan
kiểm
tra
đảng
và
việc
nhất
thể
hóa
chức
danh
người
đứng
đầu,
việc
sáp
nhập,
hợp
nhất
cơ
quan
khác
cùng
chức
năng
tham
mưu,
giúp
việc
của
cấp
ủy
với
cơ
quan
chuyên
môn
khác
(hoặc
tham
mưu)
thuộc
UBND
có
chức
năng,
nhiệm
vụ
tương
đồng
cấp
tỉnh,
cấp
huyện.
Từ
đó
có
định
hướng
cụ
thể
đối
với
từng
mô
hình
hợp
nhất
tránh
tình
trạng
chung
chung
như
hiện
nay./.
[1] Dẫn
theo:
http://ubkttw.vn/nghien-cuu-trao-doi/-/asset_publisher/bHGXXiPdpxRC/content/ban-ve-hop-nhat-uy-ban-kiem-tra-va-thanh-tra-o-cap-tinh-va-cap-huyen?inheritRedirect=false.
[2] Dẫn
theo:
http://ubkttw.vn/nghien-cuu-trao-doi/-/asset_publisher/bHGXXiPdpxRC/content/ban-ve-hop-nhat-uy-ban-kiem-tra-va-thanh-tra-o-cap-tinh-va-cap-huyen?inheritRedirect=false.
[3] Đó
là
các
tỉnh
Hà
Giang,
Quảng
Ninh,
Yên
Bái,
Hải
Phòng,
Điện
Biên,
Hà
Tĩnh,
Quảng
Ngãi
và
Trà
Vinh.
[4] Kết
quả
nghiên
cứu
khảo
sát
“Thí
điểm
hợp
nhất
cơ
quan
thanh
tra
nhà
nước
và
cơ
quan
kiểm
tra
Đảng”
do
Viện
Chiến
lược
và
Khoa
học
thanh
tra,
Thanh
tra
Chính
phủ
thực
hiện
năm
2019.
[5] Nguồn:
Xem
Báo
cáo
kết
quả
nghiên
cứu,
khảo
sát
“Thí
điểm
hợp
nhất
cơ
quan
thanh
tra
Nhà
nước
và
cơ
quan
kiểm
tra
Đảng”
do
Viện
Chiến
lược
và
Khoa
học
thanh
tra,
Thanh
tra
Chính
phủ
thực
hiện
năm
2019.