Theo
Đại
từ
điển
Tiếng
Việt,
“thanh
tra” được
hiểu
là
hoạt
động
“điều
tra,
xem
xét
để
làm
rõ
sự
việc”[1].
Nói
cách
khác,
thanh
tra
là
trực
tiếp
xem
xét
làm
rõ
các
tình
tiết
của
vụ
việc
để
đi
đến
kết
luận
đúng
hay
sai,
đồng
thời
làm
rõ
tính
chất,
mức
độ,
nguyên
nhân
và
hậu
quả
của
vụ
việc.
Luật
Thanh
tra
năm
2010
quy
định
hai
tổ
chức
thanh
tra
là
Thanh
tra
nhà
nước
và
Thanh
tra
nhân
dân.
Thanh
tra
nhân
dân
được
thành
lập
ở
xã,
phường,
thị
trấn,
cơ
quan
nhà
nước,
đơn
vị
sự
nghiệp
công
lập,
doanh
nghiệp
nhà
nước.
Về
bản
chất,
“Thanh
tra
nhân
dân” là
hoạt
động
giám
sát
và
thuộc
loại
hình
“giám
sát,
kiểm
tra
xã
hội”.
Điều
này
thể
hiện
rất
rõ
thông
qua
các
quy
định
của
Luật
Thanh
tra
năm
2010
về
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
của
Thanh
tra
nhân
dân.
Nếu
như
Thanh
tra
nhà
nước
mang
quyền
lực
nhà
nước
thì
Thanh
tra
nhân
dân
-
một
hình
thức
giám
sát
của
nhân
dân
lại
không
mang
quyền
lực
nhà
nước.
Khi
thực
hiện
hoạt
động
giám
sát,
Thanh
tra
nhân
dân
chỉ
có
quyền
kiến
nghị
chứ
không
có
quyền
xử
lý
vụ
việc.
Vì
lẽ
đó,
có
ý
kiến
cho
rằng,
thuật
ngữ
“thanh
tra” và
“thanh
tra
nhà
nước” là
đồng
nhất
bởi
Thanh
tra
nhân
dân
không
thực
hiện
hoạt
động
thanh
tra
mà
thực
hiện
hoạt
động
giám
sát
[2].
Trong
quản
lý
nhà
nước,
hoạt
động
thanh
tra
được
hiểu
là
thanh
tra
nhà
nước
[3].
Theo
đó,
Thanh
tra
nhà
nước
là
hoạt
động
xem
xét,
đánh
giá,
xử
lý
theo
trình
tự,
thủ
tục
do
pháp
luật
quy
định
của
cơ
quan
nhà
nước
có
thẩm
quyền
đối
với
việc
thực
hiện
chính
sách,
pháp
luật,
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
của
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
[4].
Thanh
tra
nhà
nước
bao
gồm
thanh
tra
hành
chính
và
thanh
tra
chuyên
ngành.
Thanh
tra
hành
chính
là
hoạt
động
thanh
tra
của
cơ
quan
nhà
nước
có
thẩm
quyền
đối
với
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
trực
thuộc
trong
việc
thực
hiện
chính
sách,
pháp
luật,
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
được
giao.
Thanh
tra
chuyên
ngành
là
hoạt
động
thanh
tra
của
cơ
quan
nhà
nước
có
thẩm
quyền
theo
ngành,
lĩnh
vực
đối
với
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
trong
việc
chấp
hành
pháp
luật
chuyên
ngành,
quy
định
về
chuyên
môn
-
kỹ
thuật,
quy
tắc
quản
lý
thuộc
ngành,
lĩnh
vực
đó.
Thanh
tra
hành
chính
là
một
phương
thức
hữu
hiệu
để
cơ
quan
quản
lý
nhà
nước
cấp
trên
có
thể
kiểm
soát
việc
thực
hiện
chính
sách,
pháp
luật,
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
được
giao
của
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
trực
thuộc.
Để
thực
hiện
hoạt
động
thanh
tra
hành
chính,
pháp
luật
quy
định
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
của
những
chủ
thể
tiến
hành
hoạt
động
thanh
tra
hành
chính.
Việc
ghi
nhận
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
của
chủ
thể
tiến
hành
hoạt
động
thanh
tra
hành
chính
tạo
cơ
sở
pháp
lý
để
chủ
thể
này
triển
khai
các
hoạt
động
cần
thiết,
quyết
định
nhanh
chóng,
kịp
thời
các
vấn
đề
phát
sinh
qua
thanh
tra,
từ
đó
thúc
đẩy
tính
chủ
động,
tích
cực
và
trách
nhiệm
trong
việc
thực
hiện
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
được
giao.
Luật
Thanh
tra
năm
2010
và
Nghị
định
số
86/2011/NĐ-CP
ngày
22/9/2011
của
Chính
phủ
(Nghị
định
số
86)
quy
định
chi
tiết
và
hướng
dẫn
thi
hành
một
số
điều
của
Luật
Thanh
tra
quy
định
cụ
thể
về
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
của
những
chủ
thể
tiến
hành
hoạt
động
thanh
tra
hành
chính
như
người
ra
quyết
định
thanh
tra,
Trưởng
Đoàn
thanh
tra,
thanh
tra
viên,
thành
viên
Đoàn
thanh
tra.
Các
quy
định
này
tạo
điều
kiện
thuận
lợi
cho
các
chủ
thể
trong
quá
trình
áp
dụng
pháp
luật,
loại
trừ
hiện
tượng
lạm
quyền,
tùy
tiện.
Ngoài
ra,
việc
quy
định
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
của
những
chủ
thể
tiến
hành
hoạt
động
thanh
tra
hành
chính
còn
giúp
đối
tượng
thanh
tra,
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
liên
quan
giám
sát
hoạt
động
thanh
tra
được
thực
hiện
trong
khuôn
khổ
pháp
luật.
Theo
điểm
d
khoản
1
Điều
48
Luật
Thanh
tra
năm
2010,
người
ra
quyết
định
thanh
tra
hành
chính
có
nhiệm
vụ,
quyền
hạn: “yêu
cầu
người
có
thẩm
quyền
tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
sử
dụng
trái
pháp
luật
khi
xét
thấy
cần
ngăn
chặn
ngay
việc
vi
phạm
pháp
luật
hoặc
để
xác
minh
tình
tiết
làm
chứng
cứ
cho
việc
kết
luận,
xử
lý”.
Người
ra
quyết
định
thanh
tra
hành
chính
được
yêu
cầu
người
có
thẩm
quyềntạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
sử
dụng
trái
pháp
luật
khi
có
các
căn
cứ:
i) Cần
phải
ngăn
chặn
ngay
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật;
bởi
lẽ,
các
khoản
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
được
xem
là
tang
vật,
phương
tiện,
công
cụ
vi
phạm
pháp
luật.
Do
đó,
phải
tiến
hành
việc
tạm
giữ
vì
nếu
không
tạm
giữ
thì
người
vi
phạm
sẽ
tiếp
tục
thực
hiện
hành
vi
vi
phạm;
ii) Để
xác
minh
làm
rõ
cho
việc
kết
luận
thanh
tra
vì
để
có
thể
kết
luận
chính
xác
có
hay
không
có
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật
của
một
đối
tượng,
người
ra
quyết
định
thanh
tra
hành
chính
phải
có
đủ
chứng
cứ
chứng
minh
hành
vi
vi
phạm
thông
qua
các
khoản
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
được
sử
dụng
trái
phép;
iii) Nhằm
phục
vụ
cho
việc
xử
lý
sau
thanh
tra;
bởi
lẽ,
một
khi
kết
luận
thanh
tra
đã
xác
định
là
có
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật
thì
những
tang
vật,
công
cụ,
phương
tiện
vi
phạm
này
phải
được
xử
lý
theo
quy
định
như
thu
hồi,
tịch
thu
nộp
ngân
sách
nhà
nước,
chuyển
giao
cho
cơ
quan
quản
lý
nhà
nước
chuyên
ngành
để
quản
lý,
xử
lý
hoặc
tiêu
hủy
theo
quy
định
của
pháp
luật.
Điều
40
Nghị
định
số
86
quy
định
chi
tiết về
trình
tự
và
cách
thức
thực
hiện
việc
tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
sử
dụng
trái
pháp
luật.
Cụ
thể:
quyết
định
tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
phải
bằng
văn
bản,
trong
đó
ghi
rõ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
bị
tạm
giữ,
thời
gian
tạm
giữ,
trách
nhiệm
của
người
ra
quyết
định
tạm
giữ,
nghĩa
vụ
của
đối
tượng
có
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
tạm
giữ;
việc
tạm
giữ
phải
được
lập
thành
biên
bản;
đối
với
đồ
vật,
giấy
phép
xét
thấy
cần
giao
cho
cơ
quan
chức
năng
giữ
thì
yêu
cầu
cơ
quan
đó
thực
hiện
[5];
khi
xét
thấy
không
cần
thiết
áp
dụng
biện
pháp
tạm
giữ
thì
người
ra
quyết
định
tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
được
cấp
hoặc
sử
dụng
trái
pháp
luật
phải
ra
quyết
định
hủy
bỏ
ngay
biện
pháp
đó.
Mẫu
văn
bản
liên
quan
đến
“tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
sử
dụng
trái
pháp
luật” được
thực
hiện
theo
Thông
tư
số
05/2014/TT-TTCP
ngày
16/10/2014
của
Tổng
Thanh
tra
Chính
phủ
(Thông
tư
số
05).
Theo
đó, Điều
25
Thông
tư
số
05
quy
định
trường
hợp
cần
tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
sử
dụng
trái
pháp
luật
thì
Trưởng
đoàn
thanh
tra
đề
nghị
người
ra
quyết
định
thanh
tra
ra
quyết
định
tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
được
cấp.
Quyết
định
tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
được
cấp
được
thực
hiện
theo
Mẫu
số
23-TTr
ban
hành
kèm
theo
Thông
tư
số
05.
Trong
trường
hợp
cần
thiết,
người
ra
quyết
định
thanh
tra
có
văn
bản
yêu
cầu
người
có
thẩm
quyền
tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
được
cấp
do
hành
vi
trái
pháp
luật
gây
ra.
Văn
bản
yêu
cầu
được
thực
hiện
theo
Mẫu
số
24-TTr
ban
hành
kèm
theo
Thông
tư
số
05.
Việc
tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
sử
dụng
trái
pháp
luật
có
vai
trò
quan
trọng
và
thể
hiện
rõ
nét
tính
quyền
lực
nhà
nước
của
thanh
tra
hành
chính.
Do
đó,
tuy
có
quan
điểm
cho
rằng
nên
hủy
bỏ
quyền
yêu
cầu
người
có
thẩm
quyền
tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
sử
dụng
trái
pháp
luật
của
người
ra
quyết
định
thanh
tra
nói
chung
và
người
ra
quyết
định
thanh
tra
hành
chính
nói
riêng
vì
không
mang
tính
khả
thi
[6].
Tuy
nhiên,
theo
tác
giả
thì
quy
định
về
quyền
yêu
cầu
người
có
thẩm
quyền
tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
sử
dụng
trái
pháp
luật
là
rất
cần
thiết.
Thực
tiễn
hoạt
động
thanh
tra
hành
chính
đã
chứng
minh
sự
cần
thiết
của
quy
định
tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
sử
dụng
trái
pháp
luật.
Việc
tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
sử
dụng
trái
pháp
luật
nếu
được
sử
dụng
chính
xác
sẽ
có
ý
nghĩa
lớn,
nhằm
tạo
cơ
sở
xác
minh
chứng
cứ
phục
vụ
cho
việc
ra
kết
luận
thanh
tra.
2.
Bất
cập
trong quy
định
của
pháp
luật
về tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
sử
dụng
trái
pháp
luật
trong
hoạt
động
thanh
tra
Một
là, quy
định
về
quyền
hạn
liên
quan
đến
việc
tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
chưa
dự
liệu
được
trường
hợp
người
ra
quyết
định
thanh
tra
hành
chính
là
người
có
thẩm
quyền
ra
quyết
định
tạm
giữ.
Theo
Mẫu
số
23-TTr,
thẩm
quyền
ra
quyết
định
tạm
giữ
thuộc
về
người
ra
quyết
định
thanh
tra
hành
chính
hoặc
người
có
thẩm
quyền
ra
quyết
định
tạm
giữ
khác.
Tuy
nhiên,
theo
quy
định
của
Luật
Thanh
tra
năm
2010,
người
ra
quyết
định
thanh
tra
hành
chính
chỉ
có
quyền
yêu
cầu
người
có
thẩm
quyền
ra
quyết
định
tạm
giữ
mà
không
được
quyền
tự
ra
quyết
định
tạm
giữ.
Điều
này
dẫn
đến
thực
tế
là
người
ra
quyết
định
thanh
tra
hành
chính
cho
dù
được
pháp
luật
quy
định
có
thẩm
quyền
tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
nhưng
lại
không
được
quyền
tự
mình
ban
hành
quyết
định,
mà
chỉ
được
yêu
cầu
chủ
thể
khác
thực
hiện.
Đơn
cử,
các
chức
danh
thủ
trưởng
cơ
quan
quản
lý
nhà
nước
như
Chủ
tịch
Ủy
ban
nhân
dân
(UBND)
cấp
huyện,
Chủ
tịch
UBND
cấp
tỉnh,
Giám
đốc
Sở,
Bộ
trưởng,
Thủ
trưởng
cơ
quan
ngang
bộ...
được
pháp
luật
quy
định
cho
thẩm
quyền
tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép.
Tuy
nhiên,
khi
ban
hành
quyết
định
thanh
tra
hành
chính
và
trở
thành
người
ra
quyết
định
thanh
tra
hành
chính
thì
lại
không
được
tự
ra
quyết
định
tạm
giữ.
Nếu
họ
tự
ra
quyết
định
tạm
giữ
thì
tuy
hợp
lý
nhưng
lại
không
phù
hợp
với
quy
định
của
Luật
Thanh
tra
năm
2010.
Ngược
lại,
việc
yêu
cầu
chủ
thể
khác
thực
hiện
tuy
đúng
quy
định
của
pháp
luật
nhưng
lại
bất
hợp
lý.
Hai
là,
thời
hạn
tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
sử
dụng
trái
pháp
luật
trong
hoạt
động
thanh
tra
chưa
được
quy
định
cụ
thể.
Tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
sử
dụng
trái
pháp
luật
trong
hoạt
động
thanh
tra
là
một
biện
pháp
mang
tính
chất
tạm
thời.
Tính
chất
tạm
thời
thể
hiện
ở
thuật
ngữ “cần
ngăn
chặn
ngay” hoặc “làm
chứng
cứ
cho
việc
kết
luận,
xử
lý”.
Do
đó,
về
nguyên
tắc,
tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
sử
dụng
trái
pháp
luật
trong
hoạt
động
thanh
tra
phải
có
thời
hạn
cụ
thể.
Tuy
nhiên,
pháp
luật
hiện
hành
chưa
quy
định
thời
hạn
tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
sử
dụng
trái
pháp
luật
trong
hoạt
động
thanh
tra.
Trên
thực
tế,
thời
hạn
này
hiện
nay
do
người
ra
quyết
định
tạm
giữ
tùy
nghi
quyết
định.
Bên
cạnh
đó,
pháp
luật
hiện
hành
cũng
không
quy
định
thời
gian
tạm
giữ
tối
đa.
Đây
là
một
bất
cập
rất
lớn;
bởi
lẽ,
việc
tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
sử
dụng
trái
pháp
luật
trong
hoạt
động
thanh
tra
quá
lâu
có
thểảnh
hưởng
đến
quyền
và
lợi
ích
hợp
pháp
của
chủ
sở
hữu
trong
một
số
trường
hợp
nhất
định.
Ba
là,
pháp
luật
hiện
hành
không
quy
định
về
việc
xử
lý
đồ
vật
bị
tạm
giữ từ
hành
vi
vi
phạm
bị
xử
lý kỷ
luật.
Theo
quy
định
của
pháp
luật
thanh
tra,
đối
tượng
bị
tạm
giữ
có
thể
là
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
được
sử
dụng
trái
pháp
luật.
Việc
sử
dụng
trái
pháp
luật
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
có
thể
cấu
thành
một
vi
phạm
hành
chính
hoặc
một
vi
phạm
kỷ
luật.
Theo
quy
định
của
Điều
125,
Điều
126
Luật
Xử
lý
vi
phạm
hành
chính
năm
2012
đã
được
sửa
đổi,
bổ
sung
một
số
điều
năm
2020
(Luật
Xử
lý
VPHC
năm
2012),
người
ra
quyết
định
tạm
giữ
có
trách
nhiệm
bảo
quản
tang
vật,
phương
tiện
vi
phạm
hành
chính,
giấy
phép,
chứng
chỉ
hành
nghề.
Trong
trường
hợp
tang
vật,
phương
tiện
vi
phạm
hành
chính,
giấy
phép,
chứng
chỉ
hành
nghề
bị
mất,
bán
trái
quy
định,
đánh
tráo
hoặc
hư
hỏng,
mất
linh
kiện,
thay
thế
thì
người
ra
quyết
định
tạm
giữ
phải
chịu
trách
nhiệm
bồi
thường
và
bị
xử
lý
theo
quy
định
của
pháp
luật.
Khi
thực
hiện
việc
tạm
giữ,
người
có
thẩm
quyền
tạm
giữ
phải
niêm
phong
tang
vật,
phương
tiện
vi
phạm
hành
chính
bị
tạm
giữ,
trừ
trường
hợp
tang
vật,
phương
tiện
là
động
vật,
thực
vật
sống,
hàng
hóa,
vật
phẩm
dễ
hư
hỏng,
khó
bảo
quản
theo
quy
định
của
pháp
luật.Đối
với
tang
vật
vi
phạm
hành
chính
là
hàng
hóa,
vật
phẩm
dễ
bị
hư
hỏng
thì
người
ra
quyết
định
tạm
giữ
phải
tổ
chức
bán
ngay
theo
giá
thị
trường
và
việc
bán
phải
được
lập
thành
biên
bản.
Tiền
thu
được
phải
gửi
vào
tài
khoản
tạm
gửi
mở
tại
Kho
bạc
Nhà
nước.
Nếu
sau
đó,
theo
quyết
định
của
người
có
thẩm
quyền,
tang
vật
đó
bị
tịch
thu
thì
tiền
thu
được
phải
nộp
vào
ngân
sách
nhà
nước.
Trường
hợp
tang
vật
đó
không
bị
tịch
thu
thì
tiền
thu
được
phải
trả
cho
chủ
sở
hữu,
người
quản
lý
hoặc
người
sử
dụng
hợp
pháp.
Tuy
nhiên,
nếu
đồ
vật
bị
tạm
giữ
không
liên
quan
đến
vi
phạm
hành
chính
mà
chỉ
liên
quan
đến
vi
phạm
bị
xử
lý
kỷ
luật
thì
sẽ
không
thể
áp
dụng
các
quy
định
của
Luật
Xử
lý
VPHC
năm
2012.
Trên
thực
tế,
có
nhiều
đồ
vật
liên
quan
đến
vi
phạm
bị
xử
lý
kỷ
luật
là
hàng
hóa
dễ
cháy,
nổ
(xăng,
dầu),
hàng
hóa
mang
tính
chất
thời
vụ
(hàng
tiêu
dùng
phục
vụ
lễ,
tết),
hàng
hóa
khó
bảo
quản,
dễ
bị
ôi
thiu
(thực
phẩm
tươi
sống).
Những
hàng
hóa
này
cần
có
cách
xử
lý
tương
ứng,
phù
hợp
với
tính
chất
lý
tính
của
hàng
hóa.
Tuy
nhiên,
pháp
luật
hiện
hành
không
quy
định
cụ
thể
về
cách
xử
lý.
Điều
này
gây
khó
khăn
vì
người
ra
quyết
định
thanh
tra
hành
chính
không
thể
quyết
định
hoặc
yêu
cầu
người
có
thẩm
quyền
quyết
định
tạm
giữ
nếu
những
đồ
vật
có
tính
chất
như
trên
được
sử
dụng
trái
pháp
luật
từ
hành
vi
vi
phạm
trách
nhiệm
kỷ
luật.
Bốn
là,
pháp
luật
hiện
hành không
quy
định
cụ
thể
về
vấn
đề
giao
đồ
vật
bị
tạm
giữ
cho cơ
quan
chức
năng.
Theo
quy
định
pháp
luật,
các
đồ
vật
có
tính
chất
đặc
biệt
được
người
ra
quyết
định
thanh
tra
hành
chính
tạm
giữ
trong
quá
trình
thanh
tra
sẽ
được
giao
cho
cơ
quan
chức
năng
giữ
trong
một
số
trường
hợp.
Tuy
nhiên,
đồ
vật
nào
phải
giao
cho
cơ
quan
chức
năng
tạm
giữ
và
cơ
quan
chức
năng
nào
sẽ
thực
hiện
tạm
giữ
lại
không
được
quy
định
rõ.
Điều
này
dẫn
đến
việc
thực
hiện
trên
thực
tế
thiếu
đồng
bộ,
không
thống
nhất;
bởi
lẽ,
xét
về
bản
chất,
mỗi
loại
đồ
vật
khác
nhau
sẽ
có
giá
trị
khác
nhau
và
cần
được
tạm
giữ
bởi
những
chủ
thể
khác
nhau
như
việc
tạm
giữ
vàng,
bạc,
kim
khí
quý,
đá
quý
khác
với
việc
tạm
giữ
động
vật,
thực
vật
quý
hiếm,
tạm
giữ
chất
độc,
vụ
khí
quân
dụng...
Ngoài
ra,
pháp
luật
hiện
hành
cũng
không
quy
định
việc
tổ
chức
quản
lý
nơi
tạm
giữ
và
chế
độ
quản
lý,
bảo
quản
đối
với
đồ
vật
bị
tạm
giữ
là
các
đồ
vật
khác
(không
thuộc
dạng
hàng
hóa,
vật
phẩm
dễ
hư
hỏng
như
đã
phân
tích
tại
mục
hạn
chế
thứ
nhất
hoặc
đồ
vật
có
tính
chất
đặc
biệt
buộc
phải
giao
cho
cơ
quan
chức
năng
quản
lý,
bảo
quản
như
đã
phân
tích
tại
mục
hạn
chế
thứ
hai
nêu
trên).
Trong
khi
đó,
các
hoạt
động
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính,
điều
tra,
truy
tố...
đều
quy
định
các
nội
dung
này
đối
với
việc
tạm
giữ
các
đồ
vật
này
[7].
Điều
này
gây
khó
khăn
cho
người
ra
quyết
định
thanh
tra
hành
chính
trong
quá
trình
thực
hiện
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
của
mình.
3.
Kiến
nghị
Để
bảo
đảm
tính
thống
nhất,
tính
khả
thi
của
các
quy
định
của
pháp
luật
về
tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
sử
dụng
trái
pháp
luật
trong
hoạt
động
thanh
tra,
tác
giả
kiến
nghị:
Một
là,
sửa
đổiđiểm
d
khoản
1
Điều
48
Luật
Thanh
tra
năm
2010
theo
hướng
“người
ra
quyết
định
thanh
tra
ra
quyết
định
tạm
giữ
hoặc
yêu
cầu
người
có
thẩm
quyền
tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
sử
dụng
trái
pháp
luật”.
Hai
là,
bổ
sungquy
định
về
thời
hạn
tạm
giữ
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
sử
dụng
trái
pháp
luật
trong
hoạt
động
thanh
tra.
Tác
giả
cho
rằng,thời
hạn
tạm
giữ
các
tiền,
đồ
vật,
giấy
phép
tính
từ
thời
điểm
tạm
giữ
trên
thực
tế
đến
khi
kết
thúc
việc
thanh
tra
tại
nơi
được
thanh
tra.
Trường
hợp
có
căn
cứ
để
xử
lý
đối
tượng
tạm
giữ,
người
ra
quyết
định
thanh
tra
hành
chính
quyết
định
hoặc
yêu
cầu
người
có
thẩm
quyền
kéo
dài
thời
hạn
tạm
giữ
nhưng
không
được
vượt
quá
thời
hạn
ra
kết
luận
thanh
tra.
Ba
là,
bổ
sung
quy
định
về
việc
xử
lý
các
đồ
vật
là
hàng
hóa,
vật
phẩm
dễ
bị
hư
hỏng,
khó
bảo
quản
bị
tạm
giữ
trong
quá
trình
thanh
tra.
Tác
giả
cho
rằng,
cần
vận
dụng
quy
định
của
pháp
luật
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính.
Theo
đó,
người
ra
quyết
định
thanh
tra
hành
chính
phải
tổ
chức
xử
lý
dưới
hình
thức
tiêu
hủy
đối
với
hàng
hóa,
vật
phẩm
đã
bị
hư
hỏng
hoặc
không
còn
giá
trị
sử
dụng.
Đối
với
những
hàng
hóa
không
thuộc
trường
hợp
nêu
trên
thì
phải
tổ
chức
bán
ngay
theo
giá
thị
trường
và
việc
bán
phải
được
lập
thành
biên
bản.
Tiền
thu
được
từ
việc
xử
lý
phải
gửi
vào
tài
khoản
tạm
gửi
mở
tại
Kho
bạc
Nhà
nước
của
người
ra
quyết
định
thanh
tra
hành
chính.
Sau
đó,
khoản
tiền
này
sẽ
được
xử
lý
theo
kết
luận
thanh
tra
(tịch
thu
sung
quỹ
nhà
nước
hoặc
trả
lại
chủ
sở
hữu,
người
quản
lý
hoặc
người
sử
dụng
hợp
pháp).
Bốn
là,
bổ
sung
quy
định
về
các
trường
hợp
đồ
vật
phải
giao
cho
cơ
quan
chức
năng
tạm
giữ,
quy
định
về
cơ
quan
chức
năng
thực
hiện
việc
tạm
giữ.
Tác
giả
cho
rằng,
cần
vận
dụng
quy
định
của
Nghị
định
số 18/2002/NĐ-CP (sửa
đổi,
bổ
sung
bởi
Nghị
định
số
70/2013/NĐ-CP)
quy
định
về
quản
lý
kho
vật
chứng,
cụ
thể
như
sau:
i)
Đối
với
tiền,
giấy
tờ
có
giá,
vàng,
bạc,
kim
khí
quý,
đá
quý,
đồ
cổ
phải
được
niêm
phong
và
gửi
tại
hệ
thống
kho
bạc
nhà
nước
cùng
cấp
nơi
cơ
quan
thụ
lý
vụ
án
có
trụ
sở,
tuyệt
đối
không
được
phép
lưu
thông;
ii)
Đối
với
vũ
khí
quân
dụng,
chất
nổ,
chất
cháy
được
niêm
phong
và
gửi
tại
kho
vũ
khí,
trang
bị
kỹ
thuật
thuộc
Bộ
Chỉ
huy
quân
sự
cấp
tỉnh
nơi
cơ
quan
thụ
lý
vụ
án
có
trụ
sở.
Vũ
khí
không
phải
là
vũ
khí
quân
dụng
được
bảo
quản
tại
các
kho
vật
chứng;
iii)
Đối
với
chất
độc
(tùy
từng
loại
cụ
thể)
được
niêm
phong
và
gửi
tại
các
cơ
sở
quản
lý
về
chuyên
môn
thuộc
ngành
Y
tế,
Quốc
phòng,
Công
an,
Công
Thương,
Nông
nghiệp
và
Phát
triển
nông
thôn
trên
địa
bàn;
iv)
Đối
với
chất
phóng
xạ
được
niêm
phong
và
gửi
tại
Viện
năng
lượng
nguyên
tử
Việt
Nam
thuộc
Bộ
Khoa
học
và
Công
nghệ;
v)
Đối
với
động
vật
được
gửi
tại
các
Vườn
thú,
Trung
tâm
cứu
hộ
động
vật
hoang
dã
hoặc
các
cơ
sở
chăn
nuôi
thuộc
ngành
Nông
nghiệp
trên
địa
bàn;
vi)
Đối
với
thực
vật
được
gửi
tại
các
cơ
quan
lâm
nghiệp,
Công
ty
cây
trồng
trên
địa
bàn;
vii)
Đối
với
vật
là
vi
khuẩn,
siêu
vi
khuẩn,
ký
sinh
trùng
độc
hại,
mẫu
máu,
mô,
bộ
phận
cơ
thể
người,
vắc
xin
và
các
vật
chứng
khác
liên
quan
đến
lĩnh
vực
y
tế
cần
có
điều
kiện
bảo
quản
đặc
biệt
được
niêm
phong
và
gửi
tại
các
cơ
sở
quản
lý
về
chuyên
môn
thuộc
ngành
y
tế.
Ngoài
ra,
cần
bổ
sung
quy
định
về
nơi
tạm
giữ
các
đồ
vật
được
sử
dụng
trái
pháp
luật
trong
quá
trình
thanh
tra
hành
chính
(không
thuộc
dạng
hàng
hóa,
vật
phẩm
dễ
hư
hỏng
hoặc
đồ
vật
có
tính
chất
đặc
biệt)
theo
hướng
tổ
chức
quản
lý
cùng
với
nơi
tạm
giữ
các
tang
vật,
phương
tiện
vi
phạm
hành
chính
theo
pháp
luật
về
xử
lý
vi
phạm
hành
chính
để
tiết
kiệm
không
gian,
kinh
phí
và
nhân
lực
phục
vụ
việc
quản
lý,
bảo
quản;
bổ
sung
quy
định
trách
nhiệm
quản
lý
đối
với
đồ
vật
bị
tạm
giữ,
trong
trường
hợp
đồ
vật
tạm
giữ
bị
mất,
đánh
tráo,
hư
hỏng,
mất
linh
kiện,
thay
thế
thì
người
chịu
trách
nhiệm
quản
lý
sẽ
chịu
trách
nhiệm
bồi
thường
và
bị
xử
lý
theo
quy
định
của
pháp
luật./.
[1] Nguyễn
Như
Ý
(chủ
biên),
Đại
từ
điển
Tiếng
Việt,
Nxb.
Văn
hóa
-
Thông
tin,
năm
1998,
tr.
1529.
[2] Cao
Vũ
Minh,
“
Những
hạn
chế
của
Luật
Thanh
tra
năm
2010
và
phương
hướng
hoàn
thiện”,
Tạp
chí
Nhà
nước
và
pháp
luật,
số
3,
năm
2018.
[3] Nguyễn
Cửu
Việt,
Giáo
trình
luật
Hành
chính
Việt
Nam, Nxb.
Chính
trị
quốc
gia,
năm
2013,
tr.
625.
[4] Nguyễn
Cảnh
Hợp
(chủ
biên),
Giáo
trình
luật
Hành
chính
Việt
Nam,
Nxb.
Hồng
Đức
-
Hội
Luật
gia
Việt
Nam,
năm
2017,
tr.
707.
[5] Điều
40
Nghị
định
số
86/2011/NĐ-CP.
[6] Trương
Văn
Trường,
“
Cơ
sở
lý
luận
về
tổ
chức
và
hoạt
động
của
thanh
tra
hành
chính”,
Tạp
chí
Thanh
tra,
số
9,
năm
2015.
[7] Lê
Văn
Quang,
“Vướng
mắc
trong
việc
xử
lý
vật
chứng
là
pháo
nổ”,
Tạp
chí
Kiểm
sát,
số
5,
năm
2020.