Hiến
pháp
năm
2013
khẳng
định:
tố
cáo
là
quyền
cơ
bản
của
công
dân. Mọi
người
có
quyền
khiếu
nại,
tố
cáo
với
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
về
những
việc
làm
trái
pháp
luật
của cán
bộ,
công
chức, cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân. Để
bảo
đảm
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
người
tố
cáo,
Nhà
nước
ban
hành
các
quy
định
về
quyền
của
người
tố
cáo
và
bảo
vệ
người
tố
cáo,
ghi
nhận
quyền
và
nghĩa
vụ
của
họ;
xác
định
trách
nhiệm
của
cá
nhân,
cơ
quan,
tổ
chức
có
thẩm
quyền
tiếp
nhận
đơn,
thư
tố
cáo
và
có
biện
pháp
để
bảo
vệ
người
tố
cáo;
góp
phần
tích
cực
trong
đấu
tranh
phòng,
chống
tham
nhũng;
bảo
đảm
trật
tự
an
toàn
xã
hội.
Những
quy
định
này
hợp
thành
pháp
luật
về
bảo
vệ
người
tố
cáo.
Vì
vậy
có
thể
hiểu,
pháp
luật
về
bảo
vệ
người
tố
cáo
là
tổng
thể
các
quy
định
pháp
luật
có
mối
liên
hệ
chặt
chẽ,
thống
nhất,
do
cơ
quan
nhà
nước
có
thẩm
quyền
ban
hành
để
điều
chỉnh
các
quan
hệ
xã
hội
phát
sinh
trong
quá
trình
bảo
vệ
người
tố
cáo,
góp
phần
đấu
tranh
phòng
chống
tham
nhũng
và
bảo
đảm
trật
tự
xã
hội.
Nội
dung
pháp
luật về
bảo
vệ
người
tố
cáo gồm
các
quy
định
về
trách
nhiệm,
nghĩa
vụ của
chủ
thể
bảo
vệ
người
tố
cáo
(là
các
cơ
quan,
tổ
chức
có
thẩm
quyền
giải
quyết
tố
cáo,
cơ
quan
công
an
các
cấp,
Ủy
ban
nhân
dân
các
cấp,
các
tổ
chức
chính
trị
-
xã
hội
và
đoàn
thể...);
quy
định
về
đối
tượng,
phạm
vi
bảo
vệ
người
tố
cáo;
quy
định
về
trình
tự,
thủ
tục
bảo
vệ
người
tố
cáo;
quy
định
về
biện
pháp,
hình
thức
xử
lý
đối
với
các
hành
vi vi
phạm
pháp
luật (VPPL)
bảo
vệ
người
tố
cáo.
Cũng
như
hệ
thống
pháp
luật
nói
chung,
pháp
luật
về
bảo
vệ
người
tố
cáo
phải
đáp
ứng
những
yêu
cầu
nhất
định.
Trước
hết,
giữa
các
nhóm,
các
bộ
phận
của
pháp
luật
về
bảo
vệ
người
tố
cáo
phải
có
mối
liên
hệ
chặt
chẽ,
cùng
hướng
đến
mục
tiêu
bảo
vệ
người
tố
cáo.
Các
quy
định
của
pháp
luật
trong
lĩnh
vực
này
phải xác
định
rõ
phạm
vi,
đối
tượng,
quyền,
nghĩa
vụ
của
người
tố
cáo;
quyền,
nghĩa
vụ
pháp
lý
của
các
chủ
thể
tham
gia
quan
hệ
pháp
luật bảo
vệ
người
tố
cáo; thủ
tục
và
trình
tự
thực
hiện
hoạt
động
bảo
vệ
người
tố
cáo.
Quy
định
về
trình
tự,
thủ
tục
bảo
vệ
người
tố
cáo
phải
nhanh
gọn,
tiện
lợi
và
mang
lại
hiệu
quả
trong
việc
bảo
vệ
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
cũng
như
tính
mạng
và
tài
sản,
vị
trí
việc
làm,
thu
nhập
của
người
tố
cáo
và
người
thân
của
họ.
Quy
định
về
các
biện
pháp
và
hình
thức
xử
lý
được
áp
dụng
cho
các
chủ
thể
có
hành
vi
VPPL
bảo
vệ
người
tố
cáo
phải
có
tác
dụng
giáo
dục,
răn
đe,
ngăn
ngừa,
đấu
tranh
phòng,
chống
các
hành
vi
đe
dọa,
trù
dập,
trả
thù
của
các
đối
tượng
bị
tố
cáo;
tạo
tâm
lý
an
tâm,
môi
trường
xã
hội
an
toàn,
qua
đó
động
viên
công
dân
thực
hiện
quyền
tố
cáo;
góp
phần
to
lớn
trong
công
tác
đấu
tranh
phòng,
chống
các
hành
vi
VPPL.
Pháp
luật
về bảo
vệ
người
tố
cáo
có
tính
khả
thi,
hiệu
quả
sẽ
khuyến
khích
người
dân
thực
hiện
quyền
tố
cáo
của
mình,
góp
phần
tích
cực
trong
công
tác
đấu
tranh
phòng,
chống
tham
nhũng
và
các
hành
vi
VPPL
khác;
đồng
thời,
hạn
chế
tình
trạng
những
đơn
thư
nặc
danh,
mạo
danh;
loại
bỏ
dần
những
hành
vi
de
dọa,
trù
dập,
trả
thù
người
tố
cáo;
góp
phần
bảo
đảm
trật
tự,
an
toàn
xã
hội. Pháp
luật
về bảo
vệ
người
tố
cáo phải
đồng
bộ,
thống
nhất; quy
định
rõ
ràng
và
cụ
thể
trách
nhiệm
của
các
cơ
quan
hành
chính,
cơ
quan
bảo
vệ
pháp
luật,
các
cơ
quan
có
thẩm
quyền
và
tổ
chức
khác,
tránh
tình
trạng
các
cơ
quan
này
đùn
đẩy
trách
nhiệm
không
thực
hiện,
hoặc
thực
hiện
không
đúng
nghĩa
vụ
bảo
vệ
người
tố
cáo.
2. Thực
trạng
pháp
luật
về
bảo
vệ
người
tố
cáo
ở
nước
ta
hiện
nay
Hiện
nay,
pháp
luật
về
bảo
vệ
người
tố
cáo
được
quy
định
trong
nhiều văn
bản
quy
phạm
pháp
luật
khác
nhau như: Hiến
pháp
năm
2013;
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
năm
2005,
được
sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2007
và
2012;
Nghị
định
số
59/2013/NĐ-CP
của
Chính
phủ
ngày
17/01/2013
chi
tiết
hoá
và
hướng
dẫn
thi
hành
một
số
điều
của
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
năm
2012;
Luật
Tố
cáo
năm
2011;
Nghị
định
số
76/2012/NĐ-CP
của
Chính
phủ
ngày
03/10/2012
hướng
dẫn
thi
hành
một
số
điều
của
Luật
Tố
cáo;
Bộ
luật
Hình
sự
(BLHS)
năm
2015;
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
năm
2015… Đặc
biệt,
Luật
Tố
cáo
năm
2011
dành
một
chương
(Chương
V)
quy
định
về
bảo
vệ
người
tố
cáo
và
giao
trách
nhiệm
cho Chính
phủ
quy
định
chi
tiết
về
các
biện
pháp
bảo
vệ
người
tố
cáo,
trách
nhiệm
của
các
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
trong
việc
bảo
vệ
người
tố
cáo.
Theo
đó,
Chính
phủ
đã
ban
hành
Nghị
định
số
76/2012/NĐ-CP
quy
định
chi
tiết
thi
hành
một
số
điều
của
Luật
Tố
cáo.
Nghị
định
đã
chi
tiết
hóa
các
biện
pháp
bảo
vệ
người
tố
cáo
và
trách
nhiệm
của
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
trong
việc
bảo
vệ
người
tố
cáo. Các
văn
bản
nêu
trên
ghi
nhận
cụ
thể
các
quyền,
nghĩa
vụ
của
người
tố
cáo; quy
định
khá
rõ
phạm
vi,
đối
tượng,
thủ
tục
tiến
hành,
quyền
và
trách
nhiệm
của
các
chủ
thể
trong
bảo
vệ
an
toàn
tính
mạng,
sức
khỏe,
danh
dự,
nhân
phẩm
và
tài
sản
của
người
tố
cáo
và
các
quyền,
lợi
ích
vật
chất,
tinh
thần
cho
người
thân
thích
của
người
tố
cáo.
Pháp
luật
ghi
nhận
các
biện
pháp
và
hình
thức
xử
lý
đối
với
các
hành
vi
VPPL
về
bảo
vệ
người
tố
cáo.
Bên
cạnh
những
kết
quả
đạt
được,
nhìn
chung,
pháp
luật
về
bảo
vệ
người
tố
cáo
có
những
hạn
chế
nhất
định,
chưa
hoàn
toàn
đáp
ứng
được
yêu
cầu
và
thực
tiễn
bảo
vệ
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
người
tố
cáo
trong
cuộc
đấu
tranh
đối
với
các
hành
vi
VPPL,
chưa
đóng
vai
trò
tích
cực
trong
cuộc
đấu
tranh
phòng,
chống
tham
nhũng
ở
nước
ta
hiện
nay.
Theo
đánh
giá
của
Thanh
tra
Chính
phủ,
“các
quy
định
về
bảo
vệ
người
tố
cáo
khó
thực
hiện,
chưa
tạo
nên
thiết
chế
pháp
lý
cần
thiết
để
bảo
vệ
người
tố
cáo
một
cách
hiệu
quả
và
thực
chất,
chưa
phù
hợp
với
thực
tiễn
nhằm
bảo
vệ
kịp
thời,
hiệu
quả
người
tố
cáo
và
người
thân
thích
của
người
tố
cáo”
[1].
Pháp
luật
về
bảo
vệ
người
tố
cáo
chưa
đồng
bộ
nên
dẫn
đến
tình
trạng có
nhiều
trường
hợp
tố
cáo
về
tham
nhũng
chưa
được
giải
quyết
kịp
thời,
hay
tình
trạng
đùn
đẩy
giữa
các
cơ
quan
có
trách
nhiệm
giải
quyết.
Thậm
chí
có
tình
trạng
bao
che,
không
giải
quyết
hoặc
giải
quyết
không
đúng
yêu
cầu,
nội
dung
tố
cáo.
Cụ
thể,
pháp
luật
về
bảo
vệ
người
tố
cáo
còn
những
hạn
chế,
bất
cập
sau
đây:
Về
trình
tự,
thủ
tục
bảo
vệ
người
tố
cáo: L
uật
Tố
cáo
năm
2011
chưa
quy
định
đầy
đủ
về
trình
tự,
thủ
tục,
thời
gian
bảo
vệ
người
tố
cáo.
Ví
dụ,
theo quy
định
của
Điều
36
Luật
Tố
cáo
năm
2011, “Cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
khi
tiếp
nhận
tố
cáo,
giải
quyết
tố
cáo,
khai
thác,
sử
dụng
thông
tin,
tài
liệu
do
người
tố
cáo
cung
cấp
có
trách
nhiệm
giữ
bí
mật
họ,
tên,
địa
chỉ,
bút
tích
và
các
thông
tin
cá
nhân
khác
của
người
tố
cáo;
đồng
thời
phải
áp
dụng
biện
pháp
cần
thiết
theo
thẩm
quyền
hoặc
đề
nghị
cơ
quan,
tổ
chức
có
thẩm
quyền
có
biện
pháp
cần
thiết
để
giữ
bí
mật
thông
tin
và
bảo
vệ
cho
người
tố
cáo”.
Như
vậy,
quy
định
này
chỉ
mới
ghi
nhận
về
trách
nhiệm
của
cơ
quan
bảo
vệ
tố
cáo
một
cách
chung
chung
và
chưa
quy
định
chi
tiết
cụ
thể
về
thời
gian
các
biện
pháp,
quy
trình
để
bảo
vệ bí
mật
thông
tin
về
người
tố
cáo.
Tương
tự, việc
bảo
vệ
uy
tín,
danh
dự,
nhân
phẩm
và
các
quyền
nhân
thân
khác
của
người
tố
cáo,
người
thân
thích
của
người
tố
cáo
(tại
khoản
2
Điều
16
và
tại
mục
a,
khoản
2,
Điều
18
Nghị
định
số
76)
cũng
chưa
cụ
thể
về
thời
gian
thực
hiện
bảo
vệ
của
người
có
thẩm
quyền
[2].
Trách
nhiệm
của
các
cơ
quan,
tổ
chức,
người
có
thẩm
quyền
bảo
vệ
người
tố
cáo
và
mối
quan
hệ
giữa
các
cơ
quan
này
trong
việc
bảo
vệ
người
tố
cáo: Luật
Tố
cáo
năm
2011
chưa xác
định rõ
trách
nhiệm
của
từng
chủ
thể,
cơ
quan
trong
việc
tiếp
nhận,
xử
lý
tố
cáo,
trách
nhiệm
phối
hợp
bảo
đảm
thông
tin
về
người
tố
cáo
không
bị
tiết
lộ
ra
bên
ngoài, chưa
xác
định
rõ
cơ
quan
nào
là
cơ
quan
chịu
trách
nhiệm
chính
trong
việc
bảo
vệ
người
tố
cáo
và
người
thân
thích
của
họ
[3]. Pháp
luật
cũng
chưa
có
quy
định
về
bảo
vệ
những
người
cung
cấp
thông
tin,
hỗ
trợ
người
tố
cáo,
người
nắm
giữ
các
thông
tin,
tài
liệu
quan
trọng
làm
chứng
cứ
cho
nội
dung
tố
cáo.
Các
biện
pháp
bảo
vệ
người
tố
cáo: Quy
định
của
pháp
luật
về
các
biện
pháp
bảo
vệ
người
tố
cáo
chưa
bảo
đảm
tính
đồng
bộ,
thống
nhất
và
đầy
đủ.
Cụ
thể,
liên
quan
đến
bảo
vệ
người
tố
cáo,
trong
số
hành
vi
bị
cấm,
Luật
Tố
cáo
năm
2011
quy
định
cấm
3
hành
vi: Tiết
lộ
họ,
tên,
địa
chỉ,
bút
tích
của
người
tố
cáo
và
những
thông
tin
khác
có
thể
làm
lộ
danh
tính
của
người
tố
cáo; Không
thực
hiện
hoặc
thực
hiện
không
đầy
đủ
trách
nhiệm
bảo
vệ
người
tố
cáo;
cản
trở
việc
thực
hiện
quyền
tố
cáo;
đe
doạ,
trả
thù,
trù
dập,
xúc
phạm
người
tố
cáo (Điều
8). Trong
khi
đó,
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
năm
2005
chỉ
cấm
một
hành
vi:
“đe
doạ,
trả
thù,
trù
dập
người…
tố
giác,
tố
cáo,
cung
cấp
thông
tin
về
hành
vi
tham
nhũng”
(Điều
68).
Pháp
luật
về
bảo
vệ
người
tố
cáo
chưa
thực
sự
được
coi
là
phương
tiện
để
“bảo
vệ,
khen
thưởng
xứng
đáng
người
dũng
cảm
tố
cáo
hành
vi
tham
nhũng;
đồng
thời
xử
lý
nghiêm
mọi
hành
vi
trù
dập,
trả
thù
người
tố
cáo
tham
nhũng
hoặc
lợi
dụng
việc
tố
cáo
tham
nhũng
để
gây
mất
đoàn
kết
nội
bộ,
vu
khống,
hãm
hại
người
khác”
[4], vì
vậy,
chưa
huy
động
được
sức
mạnh
của
quần
chúng
nhân
dân,
sức
mạnh
cộng
đồng,
tập
thể;
cũng
như
“chưa
động
viên,
khuyến
khích
được
những
người
có
trách
nhiệm,
dũng
cảm
đấu
tranh
chống
các
hành
vi
VPPL”
[5].
Việc
áp
dụng
các
biện
pháp xử
lý
kỷ
luật (khiển
trách,
cảnh
cáo,
hạ
bậc
lương,
giáng
chức,
cách
chức
và
buộc
thôi
việc)
hoặc
bị
truy
cứu
trách
nhiệm
hình
sự mới
chỉ
thực
hiện
được
đối
với
người
giải
quyết
tố
cáo
mà
chưa
đề
cập
đến
các
chủ
thể
khác
có
trách
nhiệm
bảo
vệ
người
tố
cáo. Điều
46 Luật
Tố
cáo
năm
2011
quy
định:
Người
giải
quyết
tố
cáo
có
hành
vi tiết
lộ
họ,
tên,
địa
chỉ,
bút
tích
của
người
tố
cáo
và
những
thông
tin
khác
có
thể
làm
lộ
danh
tính
của
người
tố
cáo;
không
thực
hiện
hoặc
thực
hiện
không
đầy
đủ
trách
nhiệm
bảo
vệ
người
tố
cáo;
cản
trở
việc
thực
hiện
quyền
tố
cáo;
đe
dọa,
trả
thù,
trù
dập,
xúc
phạm
người
tố
cáo thì
tuỳ
theo
tính
chất,
mức
độ
vi
phạm
mà
bị
xử
lý
kỷ
luật
hoặc
bị
truy
cứu
trách
nhiệm
hình
sự;
nếu
gây
thiệt
hại
thì
phải
bồi
thường
theo
quy
định
của
pháp
luật.
Trong
khi
đó,
Luật
Trách
nhiệm
bồi
thường
(TNBT)
của
Nhà
nước
năm
2009
không
quy
định
cụ
thể
về
trình
tự,
thủ
tục
thực
hiện
TNBT
về
hành
vi
VPPL
liên
quan
đến
việc
bảo
vệ
người
tố
cáo
mà
gây
thiệt
hại
cho
người
tố
cáo
và
người
thân
của
người
tố
cáo.
Bên
cạnh
đó,
giữa
Luật
Tố
cáo
năm
2011
và
BLHS
năm
2015
chưa
thống
nhất
trong
quy
định
về
các
biện
xử
lý
khi
các
chủ
thể
có
trách
nhiệm
có
hành
vi
VPPL.
Cụ
thể,
Điều
8
Luật
Tố
cáo
năm
2011
liệt
kê
14
hành
vi
bị
cấm
trong
đó
có
03
hành
vi
liên
quan
đến
bảo
vệ
người
tố
cáo. Tuy
nhiên,
Điều
166
BLHS
năm
2015
không
truy
cứu
tất
cả
các
hành
vi
được
liệt
kê
tại
Điều
8
Luật
Tố
cáo
năm
2011,
mà
chỉ
quy
định
người
nào
“lợi
dụng
chức
vụ,
quyền
hạn
cản
trở
việc
thi
hành
quyết
định
của
cơ
quan
có
thẩm
quyền
xét
và
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo
gây
thiệt
hại
cho
người
khiếu
nại,
tố
cáo;
trả
thù
người
khiếu
nại,
tố
cáo.
Sự
không
thống
nhất
trong
quy
định
của
hai
văn
bản
này
có
thể dẫn
tới
việc
bỏ
lọt
tội
phạm”
[6].
Biện
pháp
xử
lý
hành
chính:
Điều
46
và
Điều
48
Luật
Tố
cáo
năm
2011
quy
định
biện
pháp
xử
lý
hành
chính
khi
người
giải
quyết
tố
cáo
và
các
chủ
thể
khác
thực
hiện
các
hành
vi
bị
cấm
tại
Điều
8.
Tuy
nhiên,
pháp
luật
chưa
có
quy
định
riêng
về
xử
lý
vi
phạm
hành
chính
trong
lĩnh
vực
khiếu
nại,
tố
cáo.
Do
vậy,
những
VPPL
về
bảo
vệ
người
tố
cáo
nếu
có
thì
sẽ
bị
xử
lý
theo
Luật
Xử
lý
vi
phạm
hành
chính
năm
2012
[7].
Điều
này
sẽ
gặp
không
ít
khó
khăn
bởi
vì
theo
quy
định
của
pháp
luật
thì
vi
phạm
hành
chính
là
hành
vi
có
lỗi
do
cá
nhân,
tổ
chức
thực
hiện,
vi
phạm
quy
định
của
pháp
luật
về
quản
lý
nhà
nước mà
không
phải
là
tội
phạm.
Kỹ
thuật
lập
pháp: Tại
một
số
quy
định
của
pháp
luật,
ngôn
ngữ
lập
pháp
được
sử
dụng
chưa
rõ
ràng,
chưa
tạo
ra
sự
nhận
thức
thống
nhất
trong
quá
trình
áp
dụng
pháp
luật;
một
số
quy
định
mang
tính
“tùy
nghi”
hay
“định
tính”,
gây
khó
khăn
cho
quá
trình
áp
dụng
pháp
luật,
hoặc
áp
dụng
không
thống
nhất.
Ví
dụ,
Điều
48
Luật
Tố
cáo
năm
2011
quy
định
“người
tố
cáo
và
người
khác có
liên
quan
có
hành
vi
quy
định
tại
các
khoản
6,
7,
8,
9,
10,
11,
12
và
13
Điều
8
của
Luật
này
hoặc
vi
phạm
các
quy
định
khác
của
pháp
luật
về
tố
cáo
và
giải
quyết
tố
cáo
thì
tuỳ
theo
tính
chất,
mức
độ
vi
phạm
mà
bị
xử
lý
kỷ
luật,
xử
phạt
hành
chính
hoặc
bị
truy
cứu
trách
nhiệm
hình
sự;
nếu
gây
thiệt
hại
thì
phải
bồi
thường
theo
quy
định
của
pháp
luật”.
Ở
đây,
thuật
ngữ
“người
khác”
không
rõ,
khó
xác
định
và
áp
dụng.
Tương
tự,
khoản
1
Điều
14
Nghị
định
số
76
quy
định:
“Khi
có
căn
cứ
cho
rằng
việc
tố
cáo
có
thể
gây
nguy
hại
đến
tính
mạng,
sức
khỏe
của
mình
hoặc
người
thân
thích
của
mình,
người
tố
cáo
có
quyền
yêu
cầu
người
giải
quyết
tố
cáo,
cơ
quan
công
an
nơi
người
tố
cáo,
người
thân
thích
của
người
tố
cáo
cư
trú,
làm
việc,
học
tập
hoặc
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
khác
có
thẩm
quyền
áp
dụng
biện
pháp
bảo
vệ”; Khoản
3
Điều
14
Nghị
định số 76/2012
quy
định:
“trường
hợp
xác
định
hành
vi
xâm
hại
người
được
bảo
vệ
đang
diễn
ra
hoặc
có
nguy
cơ
xảy
ra
ngay
tức
khắc… người
có
thẩm
quyền
giải
quyết
tố
cáo
phải
chỉ
đạo
hoặc
phối
hợp
với
cơ
quan Công
an
nơi
người
được
bảo
vệ…
bố
trí
lực
lượng,
phương
tiện,
công
cụ
để
bảo
vệ
an
toàn
cho
người
được
bảo
vệ
tại
nơi
cần
thiết; tạm
thời
di
chuyển
người
được
bảo
vệ
đến
nơi
an
toàn”. Ở
đây, cụm
từ “khi
có
căn
cứ
cho
rằng…” hay các
thuật
ngữ “nơi
cần
thiết”,
“nơi
an
toàn”
dẫn
đến
những
cách
hiểu
khác
nhau
[8],
dễ
dẫn
đến
việc
các
cơ
quan
chức
năng áp
dụng
tùy
tiện hoặc
không
có
cơ
sở
xác
minh
làm
tiền
đề
cho
việc
áp
dụng
các
biện
pháp
bảo
vệ
[9].
Có
nhiều
nguyên
nhân
dẫn
đến
thực
trạng
trên
đây,
trong
đó
có
thể
kể
đến
nguyên
nhân pháp
luật
về
bảo
vệ
người
tố
cáo
nhìn
chung
vẫn
chưa
thể theo
kịp
với
những
biến
đổi
nhanh
chóng
của
cuộc
sống;
do
nhận
thức chưa
đúng, chưa mang
tính
hệ
thống, cho
nên những
sửa
đổi,
bổ
sung trong
lĩnh
vực
pháp
luật
về
bảo
vệ
người
tố
cáo
chưa
đồng
bộ; hoạt
động
nghiên
cứu
lý
luận về
pháp
luật
bảo
vệ
người
tố
cáo
chưa
được
quan
tâm
đúng
mức
trong
khi việc tổng
kết
thực
tiễn thực
hiện
pháp
luật
lĩnh
vực
này
chưa
thường
xuyên…
3. Một
số
kiến
nghị
hoàn
thiện
pháp
luật
về
bảo
vệ
người
tố
cáo
Để
hoàn
thiện
pháp
luật
về
bảo
vệ
người
tố
cáo,
chúng
tôi
xin
đề
xuất
một
số
giải
pháp
như
sau:
- Bổ
sung
quy
định
về
quyền
được
yêu
cầu
bồi
thường
của
người
tố
cáo.
Điều
35
Luật
Tố
cáo
năm
2011
ghi
nhận:
Người
tố
cáo
có
quyền
yêu
cầu
người
có
trách
nhiệm
giải
quyết
tố
cáo,
các
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
gây
thiệt
hại
đến
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
mình
và
người
thân
của
mình
phải
bồi
thường
những
tổn
thất
do
hành
vi
trái
pháp
luật
gây
ra.
Việc
thực
hiện
TNBT
cho
người
tố
cáo
và
người
thân
của
người
tố
cáo
theo
quy
định
của
Luật
TNBT
của
Nhà
nước.
Tuy
nhiên,
Luật
TNBT
của
Nhà
nước
năm
2009
chỉ
xác
định
phạm
vi
thực
hiện
TNBT
của
Nhà
nước
là bồi
thường
của
Nhà
nước
đối
với
cá
nhân,
tổ
chức
bị
thiệt
hại
do
người
thi
hành
công
vụ
gây
ra
trong
hoạt
động
quản
lý
hành
chính,
tố
tụng,
thi
hành
án.
Như
vậy,
cần
phải
bổ
sung
nội
dung,
trình
tự,
thủ
tục
bồi
thường
cho
người
tố
cáo
khi
sửa
đổi,
bổ
sung
Luật
TNBT
của
Nhà
nước
hiện
hành.
- Xác
định
trách
nhiệm
của
người
đứng
đầu
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị khi
để
xảy
ra
những
hành
vi
VPPL
về
bảo
vệ
người
tố
cáo
gây
thiệt
hại
đến
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
người
tố
cáo
và
người
thân
của
họ.
- Hoàn
thiện
quy
định
về quy
trình
nghiệp
vụ
về
tiếp
nhận,
xử
lý
và
giải
quyết
tố
cáo; trong
đó,
nhấn
mạnh
trách
nhiệm
cá
nhân,
tổ
chức trong
việc
bảo
vệ
bí
mật
thông
tin
người
tố
cáo.
- Bổ
sung
và
tăng
cường
các
biện
pháp
xử
lý
hình
sự
đối
với
các
hành
vi
VPPL
về
bảo
vệ
quyền
của
người
tố
cáo
và
người
thân
của
người
tố
cáo.
Theo
đó,
cần
bổ
sung
quy
định
của
Điều
166
BLHS
năm
2015
về
một
số
hành
vi
VPPL
liên
quan
đến
việc
bảo
vệ
người
tố
cáo
và
người
thân
của
người
tố
cáo
được
quy
định
tại
Điều
8
Luật
Tố
cáo
năm
2011
và
Điều
68
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng năm
2005.
- Cần
phải
xây
dựng
Quy
chế
phối
hợp
theo
hướng
xác
định
rõ
thẩm
quyền,
trách
nhiệm,
thời
gian,
trình
tự,
thủ
tục
giữa
người
giải
quyết
tố
cáo
với
Ủy
ban
nhân
dân
các
cấp,
cơ
quan
Công
an
các
cấp
và
các
cơ
quan
hữu
quan
khác,
có
sự
tham
gia
của
Mặt
trận
Tổ
quốc
và
các
tổ
chức
thành
viên
của
Mặt
trận
ở
các
cấp,
Ban
Thanh
tra
nhân
dân, trong
đó xác
định
rõ
cơ
quan
nào
là
cơ
quan
chịu
trách
nhiệm
chính ở
mỗi
cấp
để bảo
vệ
người
tố
cáo
và
người
thân
của
người
tố
cáo. Bên
cạnh
đó,
Quy
chế
phối
hợp
cần quy
định
rõ
trách
nhiệm
của
từng
chủ
thể,
cơ
quan
trong
việc
tiếp
nhận,
xử
lý
tố
cáo,
trách
nhiệm
phối
hợp
bảo
đảm
thông
tin
về
người
tố
cáo
không
bị
tiết
lộ
ra
bên
ngoài.
- Bổ
sung
quy
định
về
biện
pháp
xử
lý
đối
với
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị,
cá
nhân
có
trách
nhiệm
nhưng
vi
phạm
các
quy
định
về
bảo
vệ
người
tố
cáo.
Như
trên
đã
phân
tích,
việc
áp
dụng
các
biện
pháp xử
lý
kỷ
luật (khiển
trách,
cảnh
cáo,
hạ
bậc
lương,
giáng
chức,
cách
chức
và
buộc
thôi
việc)
hoặc
bị
truy
cứu
trách
nhiệm
hình
sự mới
chỉ
thực
hiện
được
đối
với
người
giải
quyết
tố
cáo
mà
chưa
đề
cập
đến
các
chủ
thể
khác
có
trách
nhiệm
bảo
vệ
người
tố
cáo.
Do
vậy,
Luật
Tố
cáo
(sửa
đổi)
cần
áp
dụng
các
biện
pháp
trách
nhiệm
pháp
lý
không
chỉ
đối
với
người
có
trách
nhiệm
giải
quyết
tố
cáo
mà
còn
áp dụng đối
với
các
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
liên
quan
đến
việc
bảo
vệ
người
tố
cáo.
- Cần
rà
soát,
chuẩn
hóa
một
số
điều
luật
hiện
khó
xác
định
hoặc
dẫn
đến
những
cách
hiểu
khác
nhau, dễ
dẫn
tới
việc
các
cơ
quan
chức
năng áp
dụng
tùy
tiệnhoặc
không
có
cơ
sở
xác
minh
làm
tiền
đề
cho
việc
áp
dụng
các
biện
pháp
bảo
vệ.
Luật
Tố
cáo
(sửa
đổi)
cần
bảo
đảm
ngôn
ngữ,
kỹ
thuật
lập
pháp
dễ
hiểu,
dễ
sử
dụng,
bảo
đảm
sự
thống
nhất
trong
quá
trình
tổ
chức
thực
hiện
pháp
luật.
- Kịp
thời
ban
hành
các
văn
bản
pháp
luật
hướng
dẫn
quy
định
cụ
thể
phương
thức,
biện
pháp
bảo
vệ,
kinh
phí,
phương
tiện,
cơ
sở
vật
chất
phục
vụ
cho
công
tác
bảo
vệ
người
tố
cáo;
đồng
thời
quy
định
chế
độ
khen
thưởng
đối
với
người
tố
cáo:
cần
có
quy
định
khen
thưởng
đối
với
cơ
quan,
tổ
chức
và
cá
nhân
có
thành
tích
về
bảo
vệ
người
tố
cáo.
- Tăng
cường
hơn
nữa
công
tác
tuyên
truyền,
phổ
biến giáo
dục
pháp
luật
về
Luật
Tố
cáo
và
các
văn
bản
pháp
luật
về tố
cáo
nói
chung,
về
bảo
vệ
người
tố
cáo
nói
riêng
để cán
bộ,
công
chức,
viên
chức,
nhân
dân hiểu
được
và
yên
tâm
tham
gia
tố
cáo
các
hành
vi
VPPL./.
[1]Thanh
tra
Chính
phủ
(2017),
số
76
/TTr-CP
Tờ
trình
dự
thảo
Luật
Tố
cáo
(sửa
đổi),
tr. 2-3.
Nguồn:
http://duthaoonline.quochoi.vn.
[4]Thanh
tra
Chính
phủ
(2017),
Tờ
trình
số
76
/TTr-CP về dự án Luật
Tố
cáo
(sửa
đổi), tr. 4.
Nguồn:
http://duthaoonline.quochoi.vn.
[5] Thanh
tra
Chính
phủ
(2016),
Báo
cáo
số
3537/BC
–
TTCP
về
Tổng
kết
4
năm
thi
hành
Luật
Khiếu
nại,
Luật
Tố
cáo, tr.
22. Nguồn:
http://duthaoonline.quochoi.vn.
[8] Nguyễn
Kiều
Hưng, “Khó
an
tâm
khi
tố
cáo
tham
nhũng”,
trên http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/kho-an-tam-khi-to-cao-tham-nhung-20141101214252654.htm,
đăng
ngày 01/11/2014.
[9] Xem https://towardstransparency.vn/vi/phap-luat-bao-ve-nguoi-to-cao-tham-nhung.