Nhóm
thứ
nhất,
các
chương
có
quy
định
chung: Chương
1.
Những
quy
định
chung, Chương
5.
Tiếp
công
dân
(đã
hết
hiệu
lực), Chương
6. Trách
nhiệm
của
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
trong
việc
quản
lý
công
tác
giải
quyết
khiếu
nại, Chương
7.
Xử
lý
vi
phạm
và Chương
8.
Điều
khoản
thi
hành.
Nhóm
thứ
hai,
các
chương
có
nội
dung
độc
lập: Chương
2.
Khiếu
nại
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính, Chương
3.
Giải
quyết
khiếu
nại, Chương
4.
Khiếu
nại,
giải
quyết
khiếu
nại
quyết
định
kỷ
luật
cán
bộ,
công
chức.
Tiêu
đề
Chương
3
không
thể
hiện
là
giải
quyết
khiếu
nại
đối
với
loại
quyết
định,
hành
vi
nào
nhưng
nội
dung
chỉ
quy
định
về
giải
quyết
khiếu
nại
đối
với
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính.
Như
vậy,
trong
số
8
chương
của
Luật
Khiếu
nại
năm
2011,
có
2
chương
quy
định
riêng
về
khiếu
nại,
giải
quyết
khiếu
nại
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính;
1
chương
quy
định
riêng
về
khiếu
nại,
giải
quyết
khiếu
nại
quyết
định
kỷ
luật
cán
bộ,
công
chức
và
5
chương
quy
định
chung
cho
khiếu
nại,
giải
quyết
khiếu
nại
đối
với
cả
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính
và
quyết
định
kỷ
luật
cán
bộ
công
chức.
Với
cấu
trúc
đó,
Chương
2
cần
được
hiểu
là
quyền,
nghĩa
vụ
của
người
khiếu
nại
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính,
người
bị
khiếu
nại
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính.
Bên
cạnh
đó,
Luật
Khiếu
nại
năm
2011
không
trực
tiếp
quy
định
về
quyền,
nghĩa
vụ
của
người
khiếu
nại,
người
bị
khiếu
nại
quyết
định
kỷ
luật
cán
bộ,
công
chức.
1.
Quyền,
nghĩa
vụ
của
người
khiếu
nại,
người
bị
khiếu
nại
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính
-
Quyền,
nghĩa
vụ
của
người
khiếu
nại
Thứ
nhất, người
khiếu
nại
có
quyền
tự
mình
khiếu
nại
hoặc
ủy
quyền
cho
người
khác
thực
hiện
việc
khiếu
nại.
Mọi
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
quyền
khiếu
nại
đều
có
thể
ủy
quyền
cho
luật
sư
khiếu
nại.
Các
cá
nhân
thuộc
đối
tượng
được
trợ
giúp
pháp
lý
được
ủy
quyền
cho
trợ
giúp
viên
pháp
lý
khiếu
nại.
Trường
hợp
cá
nhân
khiếu
nại
là
người
già
yếu,
ốm
đau,
có
nhược
điểm
về
thể
chất
hoặc
vì
lý
do
khách
quan
mà
không
tự
mình
thực
hiện
được
việc
khiếu
nại
thì
có
quyền
ủy
quyền
cho
cha,
mẹ,
vợ,
chồng,
con,
anh,
chị,
em
ruột
hoặc
người
khác
có
đủ
năng
lực
hành
vi
dân
sự
thực
hiện
việc
khiếu
nại.
Quyền
tự
mình
khiếu
nại
hoặc
ủy
quyền
cho
người
khác
thực
hiện
việc
khiếu
nại
giúp
cho
người
có
quyền
khiếu
nại
có
thể
thực
hiện
quyền
khiếu
nại
của
mình
một
cách
thuận
tiện
và
cũng
có
ý
nghĩa
trong
việc
bảo
vệ
quyền,
lợi
ích
của
mình
một
cách
tốt
nhất.
Thứ
hai, người
khiếu
nại
có
quyền
nhờ
luật
sư,
trợ
giúp
viên
pháp
lý
(với
các
đối
tượng
được
trợ
giúp
pháp
lý)
tư
vấn
về
pháp
luật
hay
ủy
quyền
cho
họ
khiếu
nại.
Đa
số
người
khiếu
nại,
nhất
là
cá
nhân,
không
phải
là
những
người
am
hiểu
về
pháp
luật.
Họ
cũng
không
có
nhiều
kinh
nghiệm
trong
việc
bảo
vệ
quyền,
lợi
ích
của
mình
trước
cơ
quan
nhà
nước.
Trong
nhiều
trường
hợp,
yêu
cầu
khiếu
nại
cũng
như
toàn
bộ
các
hoạt
động
của
họ
trong
quá
trình
giải
quyết
khiếu
nại
thường
mang
tính
cảm
tính
nhiều
hơn
là
có
căn
cứ
pháp
lý.
Họ
thường
thiếu
tự
tin,
bị
ở
vào
thế
yếu
trong
tương
quan
so
sánh
với
người
bị
khiếu
nại
và
người
có
thẩm
quyền
giải
quyết
khiếu
nại
vốn
đang
là
chủ
thể
quản
lý
nhà
nước,
là
chủ
thể
thường
xuyên
vận
dụng
pháp
luật
trong
các
hoạt
động
của
mình.
Trong
tình
thế
như
vậy,
sự
trợ
giúp
về
pháp
luật
từ
các
chuyên
gia
am
hiểu
về
pháp
luật
bù
đắp
phần
nào
sự
hạn
chế
nêu
trên.
Nếu
người
khiếu
nại
ủy
quyền
cho
luật
sư,
cho
trợ
giúp
viên
pháp
lý
thực
hiện
việc
khiếu
nại
thì
khả
năng
bảo
vệ
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
người
có
quyền
khiếu
nại
càng
tốt
hơn
[2].
Bên
cạnh
đó,
người
khiếu
nại
có
quyền
được
biết,
đọc,
sao
chụp,
sao
chép
tài
liệu,
chứng
cứ
do
người
có
thẩm
quyền
giải
quyết
khiếu
nại
thu
thập
để
giải
quyết
khiếu
nại.
Với
quyền
này,
người
khiếu
nại
sẽ
biết
các
căn
cứ
để
giải
quyết
khiếu
nại
đã
đầy
đủ
chưa,
có
chính
xác
không,
có
phù
hợp
với
yêu
cầu
khiếu
nại
không.
Thông
qua
đó,
người
khiếu
nại
có
thể
biết
mình
cần
phải
làm
gì
để
việc
giải
quyết
khiếu
nại
có
thể
bảo
vệ
quyền,
lợi
ích
của
mình
tốt
nhất.
Thứ
ba, người
khiếu
nại
có
nghĩa
vụ
khiếu
nại
đến
đúng
người
có
thẩm
quyền
giải
quyết
khiếu
nại;
có
quyền
yêu
cầu
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
đang
lưu
giữ,
quản
lý
thông
tin,
tài
liệu
liên
quan
đến
nội
dung
khiếu
nại
cung
cấp
thông
tin,
tài
liệu
đó
cho
mình;
có
quyền
đưa
ra
chứng
cứ
về
việc
khiếu
nại
và
giải
trình
ý
kiến
của
mình
về
chứng
cứ
đó;
có
nghĩa
vụ
trình
bày
trung
thực
sự
việc,
đưa
ra
chứng
cứ
về
tính
đúng
đắn,
hợp
lý
của
việc
khiếu
nại,
cung
cấp
thông
tin,
tài
liệu
cho
người
giải
quyết
khiếu
nại
và
chịu
trách
nhiệm
về
nội
dung
trình
bày
và
việc
cung
cấp
thông
tin,
tài
liệu.
Thứ
tư, trong
trường
hợp
người
khiếu
nại
thấy
việc
thi
hành
quyết
định
bị
khiếu
nại
có
thể
gây
ra
hậu
quả
khó
khắc
phục
thì
có
quyền
yêu
cầu
người
giải
quyết
khiếu
nại
áp
dụng
biện
pháp
khẩn
cấp,
tức
là
ra
quyết
định
tạm
đình
chỉ
thi
hành
quyết
định
bị
khiếu
nại.
Thứ
năm, người
khiếu
nại
có
quyền
tham
gia
đối
thoại
hoặc
ủy
quyền
cho
người
đại
diện
hợp
pháp
tham
gia
đối
thoại.
Khi
tham
gia
đối
thoại,
người
khiếu
nại
(hoặc
người
được
ủy
quyền)
không
chỉ
có
thêm
cơ
hội
trình
bày
ý
kiến,
đưa
ra
chứng
cứ
chứng
minh
cho
yêu
cầu
của
khiếu
nại
mà
còn
được
lắng
nghe
người
bị
khiếu
nại
trình
bày
ý
kiến,
đưa
ra
chứng
cứ
chứng
minh
tính
hợp
pháp
của
quyết
định,
hành
vi
bị
khiếu
nại.
Qua
đó,
họ
có
thể
hiểu
rõ
hơn
về
mức
độ
đúng
hay
sai
trong
yêu
cầu
khiếu
nại
của
mình.
Vì
vậy,
khi
kết
quả
giải
quyết
khiếu
nại
không
phù
hợp
yêu
cầu
của
người
khiếu
nại
và
họ
biết
đó
là
cách
giải
quyết
đúng
pháp
luật
thì
họ
sẽ
không
khiếu
nại
tiếp
hay
khởi
kiện
vụ
án
tại
tòa
án.
Thứ
sáu, sau
khi
khiếu
nại
lần
đầu,
nếu
khiếu
nại
không
được
giải
quyết
hoặc
người
khiếu
nại
không
đồng
ý
với
kết
quả
giải
quyết
khiếu
nại,
người
khiếu
nại
có
quyền
khiếu
nại
tiếp
hoặc
khởi
kiện
vụ
án
hành
chính
tại
tòa
án
để
cơ
quan
có
thẩm
quyền
xem
xét
lại
một
lần
nữa
tính
hợp
pháp
của
quyết
định,
hành
vi
bị
khiếu
nại.
Thứ
bảy, sau
khi
đưa
yêu
cầu
khiếu
nại
đến
người
có
thẩm
quyền,
người
khiếu
nại
có
quyền
rút
yêu
cầu
khiếu
nại
tại
bất
cứ
giai
đoạn
nào
của
quá
trình
giải
quyết
khiếu
nại.
Khi
người
khiếu
nại
rút
khiếu
nại
thì
người
giải
quyết
khiếu
nại
đình
chỉ
việc
giải
quyết
khiếu
nại,
không
phụ
thuộc
vào
việc
quyết
định,
hành
vi
bị
khiếu
nại
có
trái
pháp
luật
hay
không.
Thứ
tám, người
khiếu
nại
có
quyềnđược
khôi
phục
quyền,
lợi
ích
bị
xâm
hại.
Khiếu
nại
là
việc
người
có
quyền,
lợi
ích
liên
quan
trực
tiếp
đến
quyết
định,
hành
vi
hành
chính,
quyết
định
kỷ
luật
bị
cho
là
trái
pháp
luật,
xâm
phạm
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
họ
yêu
cầu
xem
xét
lại
tính
hợp
pháp
của
quyết
định,
hành
vi
đó.
Vì vậy,
quyền
được
khôi
phục
quyền,
lợi
ích
bị
xâm
hại
bởi
quyết
định,
hành
vi
bị
khiếu
nại
là
quyền
quan
trọng
nhất.
Thứ
chín, người
khiếu
nại
có
nghĩa
vụ
chấp
hành
quyết
định,
hành
vi
bị
khiếu
nại
(như
đã
nêu
ở
trên)
và
quyết
định
giải
quyết
khiếu
nại
có
hiệu
lực
pháp
luật.
-
Quyền,
nghĩa
vụ
của
người
bị
khiếu
nại
Theo
quy
định
của
Luật
Khiếu
nại
năm
2011,
người
bị
khiếu
nại
có
các
quyền,
nghĩa
vụ
sau
[3]:
Thứ
nhất, quyền
bảo
vệ
quan
điểm.
Khi
thực
hiện
hành
vi
hành
chính
hay
ban
hành
quyết
định
hành
chính,
cơ
quan,
cán
bộ,
công
chức
phải
tuân
thủ
nguyên
tắc,
thẩm
quyền,
quy
trình,
thủ
tục
do
luật
định.
Khi
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính
bị
khiếu
nại,
người
bị
khiếu
nại
có
quyền
đưa
ra
chứng
cứ
về
tính
hợp
pháp
của
quyết
định,
hành
vi
bị
khiếu
nại.
Họ
cũng
được
biết,
đọc,
sao
chụp,
sao
chép
các
tài
liệu,
chứng
cứ
do
người
giải
quyết
khiếu
nại
thu
thập
được.
Họ
có
nghĩa
vụ
tham
gia
đối
thoại
hoặc
ủy
quyền
cho
người
đại
diện
hợp
pháp
tham
gia
đối
thoại
để
chứng
minh
tính
hợp
pháp
của
quyết
định,
hành
vi
bị
khiếu
nại.
Thứ
hai, người
bị
khiếu
nại
có
nghĩa
vụ
chấp
hành
quyết
định
xác
minh
nội
dung
khiếu
nại,
tạo
điều
kiện
cho
người
xác
minh
dễ
dàng
xác
minh
nội
dung
khiếu
nại.
Họ
có
quyền
yêu
cầu
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
đang
lưu
giữ,
quản
lý
thông
tin,
tài
liệu
liên
quan
đến
nội
dung
khiếu
nại
cung
cấp
cho
mình
để
giao
cho
người
giải
quyết
khiếu
nại.
Khi
có
yêu
cầu
của
người
xác
minh,
người
giải
quyết
khiếu
nại,
người
bị
khiếu
nại
có
nghĩa
vụ
cung
cấp
thông
tin,
tài
liệu
liên
quan
đến
nội
dung
khiếu
nại,
giải
trình
về
tính
đúng
đắn,
tính
hợp
pháp
của
quyết
định,
hành
vi
bị
khiếu
nại
giúp
người
khiếu
nại
có
đầy
đủ
thông
tin
để
giải
quyết
khiếu
nại
thuận
tiện,
chính
xác.
Thứ
ba, quyền
được
biết
kết
luận
của
người
có
thẩm
quyền
về
quyết
định,
hành
vi
của
mình
bị
khiếu
nại
(quyền
nhận
quyết
định
giải
quyết
khiếu
nại
lần
hai).
Thứ
tư, người
bị
khiếu
nại
có
nghĩa
vụ
chấp
hành
quyết
định
giải
quyết
khiếu
nại
đã
có
hiệu
lực
pháp
luật.
Thứ
năm, người
bị
khiếu
nại
có
nghĩa
vụ
sửa
đổi
hoặc
hủy
bỏ
quyết
định,
chấm
dứt
hành
vi
bị
khiếu
nại,
bồi
thường
thiệt
hại
do
quyết
định,
hành
vi
của
mình
gây
ra.
2.
So
sánh
quyền,
nghĩa
vụ
của
người
khiếu
nại,
người
bị
khiếu
nại
với
quyền,
nghĩa
vụ
của
người
khởi
kiện,
người
bị
kiện
trong
vụ
án
hành
chính
Người
khiếu
nại
và
người
khởi
kiện
vụ
án
hành
chính
có
những
quyền,
nghĩa
vụ
khá
tương
đồng.
Người
bị
khiếu
nại
và
người
bị
kiện
trong
vụ
án
hành
chính
cũng
tương
tự
như
vậy.
Sự
tương
đồng
được
thể
hiện
ở
những
quyền,
nghĩa
vụ
sau:
-
Người
khiếu
nại,
khởi
kiện
có
quyền
rút
yêu
cầu
giải
quyết
tranh
chấp
của
mình.
Việc
rút
yêu
cầu
sẽ
làm
đình
chỉ
việc
giải
quyết
tranh
chấp;
-
Người
khiếu
nại,
người
bị
khiếu
nại,
người
khởi
kiện,
người
bị
kiện
đều
có
quyền
thu
thập
chứng
cứ,
tài
liệu,
thông
tin
liên
quan
đến
tranh
chấp
để
cung
cấp
cho
bên
có
thẩm
quyền
giải
quyết
tranh
chấp;
-
Người
khiếu
nại,
người
bị
khiếu
nại,
người
khởi
kiện,
người
bị
kiện
đều
có
quyền,
nghĩa
vụ
tham
gia
đối
thoại,
tranh
luận
trong
quá
trình
giải
quyết
tranh
chấp;
-
Người
khiếu
nại,
người
bị
khiếu
nại,
người
khởi
kiện,
người
bị
kiện
đều
có
nghĩa
vụ
chấp
hành
các
quyết
định,
bản
án
giải
quyết
tranh
chấp
có
hiệu
lực
pháp
luật.
Tuy
nhiên,
giữa
người
khiếu
nại,
người
bị
khiếu
nại
và
người
khởi
kiện,
người
bị
kiện
cũng
có
những
khác
biệt
nhất
định
về
quyền,
nghĩa
vụ:
-
Trong
giải
quyết
vụ
án
hành
chính,
cả
bên
khởi
kiện
và
bên
bị
kiện
đều
có
quyền
nhờ
luật
sư
hoặc
người
khác
bảo
vệ
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
mình.
Trong
giải
quyết
khiếu
nại
thì
chỉ
người
khiếu
nại
mới
có
quyền
nhờ
luật
sư
tư
vấn
về
pháp
luật
hoặc
ủy
quyền
cho
luật
sư
bảo
vệ
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
mình
còn
người
bị
khiếu
nại
không
có
quyền
này;
-
Trong
giải
quyết
vụ
án
hành
chính,
bên
bị
kiện
có
quyền
yêu
cầu
cơ
quan
cấp
cao
hơn
giải
quyết
tiếp
tranh
chấp
nếu
họ
không
đồng
ý
với
kết
quả
giải
quyết
của
cấp
dưới.
Trong
giải
quyết
khiếu
nại,
người
bị
khiếu
nại
không
có
quyền
này.
-
Trong
giải
quyết
vụ
án
hành
chính,
người
bị
kiện
có
quyền
sửa
đổi,
bổ
sung,
thay
thế,
hủy
bỏ
quyết
định
bị
kiện,
chấm
dứt
hành
vi
bị
kiện
để
chấm
dứt
tranh
chấp
[4].
Trong
giải
quyết
khiếu
nại,
pháp
luật
không
quy
định
quyền
này
cho
người
bị
khiếu
nại.
3.
Một
số
bình
luận
và
kiến
nghị
Thứ
nhất,
về
quyền,
nghĩa
vụ
của
người
khiếu
nại,
người
bị
khiếu
nại
quyết
định
kỷ
luật
cán
bộ,
công
chức:
Như
đã
đề
cập
ở
phần
trên,
Luật
Khiếu
nại
năm
2011
chỉ
quy
định
quyền,
nghĩa
vụ
của
người
khiếu
nại,
người
bị
khiếu
nại
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính
mà
không
quy
định
quyền,
nghĩa
vụ
của
người
khiếu
nại,
người
bị
khiếu
nại
quyết
định
kỷ
luật
cán
bộ,
công
chức.
Điều
này
thật
khó
giải
thích
bởi
một
điều
rất
đơn
giản
là
khi
cán
bộ,
công
chức
thực
hiện
việc
khiếu
nại
sẽ
làm
phát
sinh
quan
hệ
pháp
luật
giữa
người
khiếu
nại
với
người
giải
quyết
khiếu
nại,
giữa
người
giải
quyết
khiếu
nại
và
người
bị
khiếu
nại.
Trong
các
quan
hệ
pháp
luật
đó,
nhất
định
các
bên
tham
gia
quan
hệ
phải
có
những
quyền,
nghĩa
vụ
nào
đó.
Vậy
các
quyền
và
nghĩa
vụ
đó
được
quy
định
ở
đâu?
Vì
vậy,
để
bảo
đảm
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
các
chủ
thể
trong
quan
hệ
khiếu
nại
quyết
định
kỷ
luật
cán
bộ,
công
chức,
cần
sửa
đổi
Luật
Khiếu
nại
theo
hướng
bổ
sung
quy
định
về
quyền,
nghĩa
vụ
của
người
khiếu
nại,
người
bị
khiếu
nại
quyết
định
kỷ
luật
cán
bộ,
công
chức.
Thứ
hai,
về
quyền
nhận
quyết
định
giải
quyết
khiếu
nại
của
người
bị
khiếu
nại:
Quy
định
về
thẩm
quyền
giải
quyết
khiếu
nại
cho
thấy,
người
có
thẩm
quyền
giải
quyết
khiếu
nại
lần
đầu
có
thể
là
chính
người
bị
khiếu
nại;
người
giải
quyết
khiếu
nại
lần
hai
bao
giờ
cũng
là
cấp
trên
của
người
bị
khiếu
nại.
Nếu
người
giải
quyết
khiếu
nại
lần
đầu
đồng
thời
là
người
bị
khiếu
nại
thì
họ
chính
là
người
ban
hành
quyết
định
giải
quyết
khiếu
nại
nên
họ
đương
nhiên
không
cần
nhận
quyết
định
giải
quyết
khiếu
nại
lần
đầu,
chỉ
cần
quyền
nhận
quyết
định
giải
quyết
khiếu
nại
lần
hai.
Trong
trường
hợp
người
giải
quyết
khiếu
nại
lần
đầu
là
thủ
trưởng
của
người
bị
khiếu
nại
thì
người
bị
khiếu
nại
không
chỉ
cần
được
nhận
quyết
định
giải
quyết
khiếu
nại
lần
hai
mà
cần
được
nhận
cả
quyết
định
giải
quyết
khiếu
nại
lần
đầu
để
biết
kết
luận
của
người
có
thẩm
quyền
về
tính
hợp
pháp
của
quyết
định,
hành
vi
của
mình
và
điều
đó
cũng
liên
quan
đến
trách
nhiệm
của
họ
khi
quyết
định,
hành
vi
đó
bị
kết
luận
là
bất
hợp
pháp
mà
người
khiếu
nại
không
khiếu
nại
tiếp
hay
khởi
kiện
vụ
án
hành
chính
tại
tòa
án.
Nói
cách
khác,
Luật
Khiếu
nại
không
nên
dừng
lại
ở
quy
định
người
bị
khiếu
nại
có
quyền
nhận
quyết
định
giải
quyết
khiếu
nại
lần
hai
mà
cần
quy
định
người
bị
khiếu
nại
có
quyền
nhận
quyết
định
giải
quyết
khiếu
nại
(không
phân
biệt
quyết
định
giải
quyết
khiếu
nại
lần
đầu
hay
lần
hai).
Thứ
ba,
về
quyền
của
người
bị
khiếu
nại
được
yêu
cầu
xem
xét
lại
quyết
định
giải
quyết
khiếu
nại:
So
sánh
quyền,
nghĩa
vụ
của
người
bị
khiếu
nại
và
người
bị
kiện
trong
vụ
án
hành
chính
cho
thấy,
người
bị
kiện
có
quyền
yêu
cầu
tòa
án
cấp
phúc
thẩm
xem
xét
lại
quyết
định,
bản
án
sơ
thẩm
về
quyết
định,
hành
vi
bị
kiện
của
mình.
Trong
khi
đó,
người
bị
khiếu
nại
không
có
quyền
yêu
cầu
bất
cứ
cơ
quan
nào
xem
xét
lại
quyết
định
giải
quyết
khiếu
nại.
Đặt
ra
giả
thiết
quyết
định,
hành
vi
bị
khiếu
nại
là
đúng
pháp
luật
nhưng
vì
lý
do
nào
đó
người
giải
quyết
khiếu
nại
kết
luận
là
trái
pháp
luật
thì
người
bị
khiếu
nại
hoàn
toàn
không
có
cơ
hội
yêu
cầu
xem
xét
lại
quyết
định
giải
quyết
khiếu
nại
đó.
Điều
này
không
chỉ
ảnh
hưởng
bất
lợi
đến
lợi
ích,
danh
dự,
uy
tín
của
chính
bản
thân
người
bị
khiếu
nại
mà
sâu
xa
hơn
là
ảnh
hưởng
đến
quản
lý
nhà
nước
nói
chung,
thậm
chí
là
ảnh
hưởng
đến
mục
đích
bảo
vệ
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
người
khiếu
nại.
Vì
vậy,
chúng
tôi
cho
rằng,
cần
bổ
sung
quy
định
về
quyền
của
người
bị
khiếu
nại
được
yêu
cầu
cấp
có
thẩm
quyền
xem
xét
lại
tính
hợp
pháp
của
quyết
định
giải
quyết
khiếu
nại
khi
họ
cho
rằng,
quyết
định
giải
quyết
khiếu
nại
trái
pháp
luật.
Thứ
tư,
về
quyền
chủ
động
sửa
đổi,
hủy
bỏ
quyết
định
hành
chính,
chấm
dứt
hành
vi
hành
chính
của
người
bị
khiếu
nại:
So
sánh
với
quyền
của
người
bị
kiện
trong
vụ
án
hành
chính,
người
bị
kiện
có
quyền
sửa
đổi,
bổ
sung
quyết
định
bị
khởi
kiện,
chấm
dứt
hành
vi
bị
khởi
kiện
mà
khi
thực
hiện
này
nếu
có
đủ
điều
kiện
thì
sẽ
làm
đình
chỉ
vụ
án
hành
chính
[5].
Trong
giải
quyết
khiếu
nại,
người
bị
khiếu
nại
không
có
quyền
tương
tự
quyền
này.
Trong
khi
đó,
khoản
3
Điều
6
Luật
Khiếu
nại
năm
2011
quy
định
“Cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
trách
nhiệm
kiểm
tra,
xem
xét
lại
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính,
quyết
định
kỷ
luật
của
mình,
nếu
trái
pháp
luật
phải
kịp
thời
sửa
chữa,
khắc
phục,
tránh
phát
sinh
khiếu
nại”.
Quy
định
này
thể
hiện
mục
đích
của
quản
lý
nói
chung
và
của
giải
quyết
khiếu
nại
nói
riêng
là
đảm
bảo
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân.
Khoản
2
Điều
13
Luật
Khiếu
nại
năm
2011
quy
định
nghĩa
vụ
của
người
bị
khiếu
nại
là
“Sửa
đổi
hoặc
hủy
bỏ
quyết
định
hành
chính,
chấm
dứt
hành
vi
hành
chính
bị
khiếu
nại”.
Quy
định
này
một
lần
nữa
khẳng
định
mục
đích
nêu
trên.
Vì
vậy,
chúng
tôi
cho
rằng,
cần
bổ
sung
quy
định
về
quyền
của
người
bị
khiếu
nại
được
chủ
động
sửa
đổi,
hủy
bỏ
quyết
định,
chấm
dứt
hành
vi
bị
khiếu
nại
và
nếu
việc
đó
làm
cho
người
khiếu
nại
rút
khiếu
nại
sẽ
không
phải
thực
hiện
hoạt
động
không
còn
cần
thiết
(hoạt
động
giải
quyết
khiếu
nại)
mà
vẫn
đảm
bảo
được
quyền,
lợi
ích
của
đối
tượng
quản
lý./.
[1] Xem
Điều
12
Luật
Khiếu
nại
năm
2011;
Xem
Bùi
Thị
Đào,
Văn
hóa
pháp
luật
trong
giải
quyết
khiếu
nại,
Tạp
chí
Nghề
luật,
tháng
5/2016.
[2] Xem
Bùi
Thị
Đào,
Khiếu
nại
và
giải
quyết
khiếu
nại
dưới
góc
nhìn
dân
chủ,
Tạp
chí
Dân
chủ
và
pháp
luật,
số
11/2008.
[3] Xem
Điều
13
Luật
Khiếu
nại
năm
2011.
[4] Xem
Điều
140
Luật
Tố
tụng
hành
chính
năm
2015.
[5] Xem
Điều
140,
Điều
235
Luật
Tố
tụng
hành
chính
năm
2015