Luật
Tố
cáo
được
ban
hành
nhằm
tạo
hành
lang
pháp
lý
để
công
dân
thực
hiện
quyền
tố
cáo;
giúp
các
cơ
quan,
tổ
chức
có
thẩm
quyền
kịp
thời
phát
hiện
và
xử
lý
đối
với
các
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật
nói
chung,
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật
của
cán
bộ,
công
chức,
viên
chức
trong
việc
thực
hiện
nhiệm
vụ,
công
vụ
nói
riêng.
Luật
Tố
cáo lần
đầu
tiên
được
ban
hành
năm
2011,
sau
nhiều
năm
thi
hành
đã
bộc
lộ
những
hạn
chế,
bất
cập
làm
giảm
hiệu
lực,
hiệu
quả
công
tác
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo,
trật
tự,
kỷ
cương
pháp
luật.
Để
khắc
phục
tình
trạng
này,
ngày
12/6/2018,
Quốc
hội
khóa
XIV
kỳ
họp
thứ
5
đã
thông
qua
Luật
Tố
cáo
mới.
Luật
có
hiệu
lực
thi
hành
từ
ngày
01/01/2019,
thay
thế
Luật
Tố
cáo
năm
2011
kể
từ
ngày
có
hiệu
lực.
Luật
Tố
cáo
năm
2018
bao
gồm
09
chương
với
67
điều,
trong
đó
quy
định
một
số
nội
dung
cơ
bản:
1.
Về
phạm
vi
điều
chỉnh
Luật
Tố
cáo
năm
2018 tiếp
tục
kế
thừa
quy
định
của
Luật
Tố
cáo
năm
2011
về
phạm
vi
điều
chỉnh,
trong
đó
quy
đinh
về
tố
cáo
và
giải
quyết
tố
cáo
đối
với
02
nhóm
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật:
(i)
Tố
cáo
hành
vi
vi
phạm
trong
việc
thực
hiện
nhiệm
vụ,
công
vụ;
(ii)
Tố
cáo
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật
về
quản
lý
nhà
nước
trong
các
lĩnh
vực.
Bên
cạnh
đó,
Luật
quy
định
về
vấn
đề
bảo
vệ
người
tố
cáo,
trách
nhiệm
của
các
cơ
quan,
tổ
chức
trong
việc
quản
lý
công
tác
giải
quyết
tố
cáo.
Đồng
thời,
để
phân
biệt
việc
giải
quyết
tố
cáo
trong
Luật
Tố
cáo
với
việc
giải
quyết
đối
với
tố
giác
và
tin
báo
về
tội
phạm,
Luật
quy
định
rõ
việc
tiếp
nhận,
giải
quyết
tố
giác
tội
phạm
và
tin
báo
về
tội
phạm
được
thực
hiện
theo
quy
định
của
pháp
luật
về
tố
tụng
hình
sự.
2.
Quyền
và
nghĩa
vụ
của
người
tố
cáo,
người
bị
tố
cáo,
người
giải
quyết
tố
cáo
Đối
với
người
tố
cáo, Luật
quy
định
các
quyền
của
người
tố
cáo
như:
Thực
hiện
tố
cáo;
được
bảo
đảm
bí
mật
hộ,
tên,
địa
chỉ,
bút
tích
và
các
thông
tin
cá
nhân
khác;
được
thông
báo
về
việc
thụ
lý
hoặc
không
thụ
lý
tố
cáo,
chuyển
tố
cáo
đến
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
giải
quyết,
gia
hạn
giải
quyết
tố
cáo,
kết
luận
nội
dung
tố
cáo;
tố
cáo
tiếp
khi
có
căn
cứ
cho
rằng
việc
giải
quyết
tố
cáo
của
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
không
đúng
pháp
luật
hoặc
quá
thời
hạn
quy
định
mà
tố
cáo
chưa
được
giải
quyết;
đề
nghị
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
áp
dụng
các
biện
pháp
bảo
vệ
người
tố
cáo;
được
khen
thưởng,
bồi
thường
thiệt
hại
theo
quy
định
của
pháp
luật.
Ngoài
ra,
Luật
Tố
cáo
năm
2018
cũng
bổ
sung
quyền
rút
tố
cáo
của
người
tố
cáo.
Bên
cạnh
các
quyền,
Luật
cũng
quy
định
người
tố
cáo
có
các
nghĩa
vụ:
Cung
cấp
họ
tên,
địa
chỉ,
cách
thức
liên
hệ
với
người
tố
cáo;
trình
bày
trung
thực
về
nội
dung
tố
cáo;
cung
cấp
thông
tin,
tài
liệu
liên
quan
đến
nội
dung
tố
cáo
mà
mình
có
được;
chịu
trách
nhiệm
trước
pháp
luật
về
nội
dung
tố
cáo
của
mình;
hợp
tác
với
người
giải
quyết
tố
cáo
khi
có
yêu
cầu;
bồi
thường
thiệt
hại
do
hành
vi
cố
ý
tố
cáo
sai
sự
thật
của
mình
gây
ra.
Đối
với
người
bị
tố
cáo: Người
bị
tố
cáo
có
quyền
được
thông
báo
về
nội
dung
tố
cáo,
việc
gia
hạn
giải
quyết
tố
cáo,
đình
chỉ,
tạm
đình
chỉ
việc
giải
quyết
tố
cáo,
tiếp
tục
giải
quyết
tố
cáo;
được
giải
trình,
đưa
ra
chứng
cứ
để
chứng
minh
nội
dung
tố
cáo
là
không
đúng
sự
thật;
được
nhận
kết
luận
nội
dung
tố
cáo;
được
bảo
đảm
quyền
và
lợi
ích
hợp
pháp
khi
chưa
có
kết
luận
nội
dung
tố
cáo
của
người
giải
quyết
tố
cáo;
yêu
cầu
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
xử
lý
người
cố
ý
tố
cáo
sai
sự
thật,
người
giải
quyết
tố
cáo
trái
pháp
luật;
được
phục
hồi
danh
dự,
khôi
phục
quyền
và
lợi
ích
hợp
pháp
bị
xâm
phạm,
được
xin
lỗi,
cải
chính
công
khai,
được
bồi
thường
thiệt
hại
do
việc
tố
cáo,
giải
quyết
tố
cáo
không
đúng
gây
ra
theo
quy
định
của
pháp
luật;
khiếu
nại
quyết
định
xử
lý
của
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
theo
quy
định
của
pháp
luật.
Bên
cạnh
đó,
người
bị
tố
cáo
cũng
có
các
nghĩa
vụ:
Có
mặt
để
làm
việc
theo
yêu
cầu
của
người
giải
quyết
tố
cáo;
giải
trình
về
hành
vi
bị
tố
cáo;
cung
cấp
thông
tin,
tài
liệu
liên
quan
khi
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
yêu
cầu;
chấp
hành
nghiêm
chỉnh
quyết
định
xử
lý
theo
kết
luận
nội
dung
tố
cáo
của
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền;
bồi
thường
thiệt
hại,
bồi
hoàn
do
hành
vi
trái
pháp
luật
của
mình
gây
ra.
Đối
với
người
giải
quyết
tố
cáo: Người
giải
quyết
tố
cáo
có
các
quyền
yêu
cầu
người
tố
cáo
đến
làm
việc,
cung
cấp
thông
tin,
tài
liệu
liên
quan
đến
nội
dung
tố
cáo
mà
người
tố
cáo
có
được;
yêu
cầu
người
bị
tố
cáo
đến
làm
việc,
giải
trình
về
hành
vi
bị
tố
cáo,
cung
cấp
thông
tin,
tài
liệu
liên
quan
đến
nội
dung
tố
cáo;
yêu
cầu,
đề
nghị
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
khác
cung
cấp
thông
tin,
tài
liệu
liên
quan
đến
nội
dung
tố
cáo;
tiến
hành
các
biện
pháp
cần
thiết
để
xác
minh,
thu
thập
thông
tin,
tài
liệu
làm
căn
cứ
để
giải
quyết
tố
cáo
theo
quy
định
của
Luật
này
và
quy
định
khác
của
pháp
luật
có
liên
quan;
áp
dụng
hoặc
yêu
cầu,
kiến
nghị
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
áp
dụng
các
biện
pháp
theo
quy
định
của
pháp
luật
để
ngăn
chặn,
chấm
dứt
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật
bị
tố
cáo;
kết
luận
nội
dung
tố
cáo
và
xử
lý
kết
luận
nội
dung
tố
cáo
theo
thẩm
quyền
hoặc
kiến
nghị
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
xử
lý
theo
quy
định
của
pháp
luật.
Bên
cạnh
các
quyền,
người
giải
quyết
tố
cáo
có
nghĩa
vụ
bảo
đảm
khách
quan,
trung
thực,
đúng
pháp
luật
trong
việc
giải
quyết
tố
cáo;
áp
dụng
các
biện
pháp
bảo
vệ
cần
thiết
theo
thẩm
quyền
hoặc
kiến
nghị
cơ
quan
có
thẩm
quyền
áp
dụng
các
biện
pháp
bảo
vệ
người
tố
cáo;
không
tiết
lộ
thông
tin
về
việc
giải
quyết
tố
cáo;
bảo
đảm
quyền
và
lợi
ích
hợp
pháp
của
người
bị
tố
cáo
khi
chưa
có
kết
luận
nội
dung
tố
cáo;
thông
báo
cho
người
tố
cáo
về
việc
thụ
lý
hoặc
không
thụ
lý
tố
cáo,
việc
chuyển
vụ
việc
tố
cáo
đến
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
giải
quyết,
gia
hạn
giải
quyết
tố
cáo,
đình
chỉ,
tạm
đình
chỉ
việc
giải
quyết
tố
cáo,
tiếp
tục
giải
quyết
tố
cáo,
kết
luận
nội
dung
tố
cáo;
thông
báo
cho
người
bị
tố
cáo
về
nội
dung
tố
cáo,
gia
hạn
giải
quyết
tố
cáo,
đình
chỉ,
tạm
đình
chỉ
việc
giải
quyết
tố
cáo,
tiếp
tục
giải
quyết
tố
cáo;
gửi
kết
luận
nội
dung
tố
cáo
cho
người
bị
tố
cáo;
chịu
trách
nhiệm
trước
pháp
luật
về
việc
giải
quyết
tố
cáo;
bồi
thường
thiệt
hại,
bồi
hoàn
do
hành
vi
giải
quyết
tố
cáo
trái
pháp
luật
của
mình
gây
ra.
3. Bổ
sung một
số
nguyên
tắc
xác
định
thẩm
quyền
giải
quyết
tố
cáo
Về
nguyên
tắc
xác
định
thẩm
quyền
giải
quyết
tố
cáo:
Luật
tiếp
tục
kế
thừa
nguyên
tắc
xác
định
thẩm
quyền
trong
Luật
Tố
cáo
năm
2011
và
bổ
sung
thêm
một
số
nguyên
tắc
để
đáp
ứng
yêu
cầu
của
thực
tiễn
hiện
nay
như
tố
cáo
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật
trong
việc
thực
hiện
nhiệm
vụ,
công
vụ
của
cán
bộ,
công
chức,
viên
chức
xảy
ra
trong
thời
gian
công
tác
trước
đây
nay
đã
chuyển
sang
cơ
quan,
tố
chức
khác
hoặc
không
còn
là
cán
bộ,
công
chức,
viên
chức;
tố
cáo
đối
với
cán
bộ,
công
chức,
viên
chức
của
cơ
quan,
tổ
chức
đã
hợp
nhất,
sáp
nhập,
chia,
tách;
tố
cáo
cán
bộ,
công
chức,
viên
chức
của
cơ
quan,
tổ
chức
đã
bị
giải
thể;
tố
cáo
cơ
quan,
tố
chức
trong
việc
thực
hiện
nhiệm
vụ,
công
vụ
(Điều
12).
Về
thẩm
quyền
giải
quyết
tố
cáo:
Luật
Tố
cáo
năm
2018
quy
định
về
thẩm
quyền
giải
quyết
tố
cáo
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật
trong
việc
thực
hiện
nhiệm
vụ,
công
vụ
trong
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
(Điều
13).
Luật
cũng
bổ
sung
quy
định
về
thẩm
quyền
giải
quyết
tố
cáo
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật
trong
việc
thực
hiện
nhiệm
vụ,
công
vụ
trong
Tòa
án
nhân
dân,
Viện
kiểm
sát
nhân
dân,
trong
Kiểm
toán
nhà
nước
và
trong
các
cơ
quan
khác
của
Nhà
nước
như
tại
các
cơ
quan
thuộc
Ủy
ban
thường
vụ
Quốc
hội,
Hội
đồng
nhân
dân
các
cấp...
(từ
Điều
14
đến
Điều
17).
Bên
cạnh
đó,
Luật
cũng
quy
định
về
thẩm
quyền
giải
quyết
tố
cáo
trong
các
đơn
vị
sự
nghiệp
công
lập
(Điều
18)
và
thẩm
quyền
giải
quyết
tố
cáo
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật
trong
việc
thực
hiện
nhiệm
vụ
của
người
có
chức
danh,
chức
vụ
trong
doanh
nghiệp
nhà
nước
(Điều
19).
Ngoài
ra,
Luật
Tố
cáo
năm
2018
tiếp
tục
kế
thừa
quy
định
của
Luật
Tố
cáo
năm
2011
khi
quy
định
về
thẩm
quyền
giải
quyết
tố
cáo
đối
với
người
được
giao
thực
hiện
nhiệm
vụ,
công
vụ
mà
không
phải
là
cán
bộ,
công
chức,
viên
chức
(Điều
21);
Luật
cũng
giao
cơ
quan
trung
ương
của
tổ
chức
chính
trị,
tổ
chức
chính
trị
-
xã
hội
hướng
dẫn
về
thẩm
quyền
giải
quyết
tố
cáo
đối
với
các
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật
trong
việc
thực
hiện
nhiệm
vụ,
công
vụ
trong
tổ
chức
chính
trị,
tổ
chức
chính
trị
xã
hội
(Điều
20).
4.
Bổ
sung
thêm
quy
định
đối
với
trường
hợp
đơn
tố
cáo
được
gửi
đến
nhiều
nơi,
tố
cáo
nặc
danh,
mạo
danh
Để
xác
định
rõ
trách
nhiệm
của
người
tố
cáo,
tránh
tình
trạng
lợi
dụng
các
hình
thức
tố
cáo
để
tố
cáo
tràn
lan,
cố
ý
tố
cáo
sai
sự
thật
ảnh
hưởng
đến
danh
dự,
uy
tín
của
người
bị
tố
cáo,
Luật
Tố
cáo
năm
2018
vẫn
quy
định
02
hình
thức
tố
cáo
là
tố
cáo
bằng
đơn
và
tố
cáo
trực
tiếp.
Việc
tiếp
nhận,
xử
lý
ban
đầu
thông
tin
tố
cáo
là
bước
quan
trọng
để
các
cơ
quan
có
thẩm
quyền
quyết
định
thụ
lý
hay
không
thụ
lý
giải
quyết
tố
cáo.
Luật
đã
quy
định
cụ
thể
việc
tiếp
nhận,
phân
loại,
xử
lý
đơn
tố
cáo,
đảm
bảo
cho
việc
xử
lý
được
thực
hiện
một
cách
chặt
chẽ.
Theo
đó,
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
giải
quyết
tố
cáo
có
trách
nhiệm
tổ
chức
việc
tiếp
nhận
tố
cáo.
Trong
việc
xử
lý
đối
với
thông
tin
tố
cáo,
Luật
Tố
cáo
năm
2018
có
quy
định
một
số
điểm
mới:
-
Trong
trường
hợp
đơn
tố
cáo
được
gửi
đến
nhiều
nơi,
nếu
không
thuộc
thẩm
quyền
giải
quyết
của
mình
và
được
gửi
đồng
thời
cho
nhiều
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
trong
đó
có
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
giải
quyết
hoặc
trường
hợp
đã
hướng
dẫn
nhưng
người
tố
cáo
vẫn
gửi
tố
cáo
đến
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
không
có
thẩm
quyền
giải
quyết
thì
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
nhận
được
tố
cáo
không
xử
lý.
Quy
định
này
nhằm
tránh
tình
trạng
người
tố
cáo
gửi
đơn
tố
cáo
tràn
lan,
vượt
cấp,
đồng
thời
đảm
bảo
tính
hiệu
quả
cho
các
cơ
quan,
tổ
chức
trong
việc
xử
lý
đối
với
tố
cáo
không
thuộc
thẩm
quyền.
-
Đối
với
tố
cáo
nặc
danh,
mạo
danh:
Khi
nhận
được
thông
tin
tố
cáo
có
nội
dung
tố
cáo
nhưng
không
rõ
họ
tên,
địa
chỉ
của
người
tố
cáo
hoặc
qua
kiểm
tra,
xác
minh
không
xác
định
được
người
tố
cáo
hoặc
người
tố
cáo
sử
dụng
họ,
tên
của
người
khác
để
tố
cáo
hoặc
thông
tin
có
nội
dung
tố
cáo
không
theo
quy
định
của
Luật
thì
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
không
xử
lý
theo
quy
định
của
Luật
Tố
cáo.
Tuy
nhiên,
trường
hợp
thông
tin
có
nội
dung
tố
cáo
có
ghi
nội
dung
rõ
ràng
về
người
có
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật,
có
tài
liệu,
chứng
cứ
cụ
thể
về
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật
và
có
cơ
sở
để
thẩm
tra,
xác
minh
thì
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
tiếp
nhận
tiến
hành
việc
thanh
tra,
kiểm
tra
theo
thẩm
quyền
hoặc
chuyển
đến
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
để
tiến
hành
việc
thanh
tra,
kiểm
tra
phục
vụ
cho
công
tác
quản
lý.
5.
Bổ
sung
quy
định
về
điều
kiện
thụ
lý
tố
cáo,
rút
tố
cáo
Luật
Tố
cáo
năm
2018
quy
định
trình
tự,
thủ
tục
giải
quyết
tố
cáo
bắt
đầu
từ
khâu
thụ
lý
tố
cáo.
Đây
cũng
là
thời
điểm
để
bắt
đầu
tính
thời
hạn
giải
quyết
tố
cáo.
Luật
quy
định
04
bước
trong
quy
trình
giải
quyết
tố
cáo:
(i)
Thụ
lý
tố
cáo;
(ii)
Xác
minh
nội
dung
tố
cáo;
(iii)
Kết
luận
nội
dung
tố
cáo;
(iv)
Xử
lý
nội
dung
tố
cáo
của
người
giải
quyết
tố
cáo.
Luật
đã
bổ
sung
một
số
quy
định
mới
nhằm
quy
định
chi
tiết,
cụ
thể
hơn
về
trình
tự,
thủ
tục
giải
quyết
tố
cáo
như:
-
Bổ
sung
quy
định
về
điều
kiện
thụ
lý
tố
cáo;
sửa
đổi
quy
định
về
thời
hạn
tố
cáo.
Theo
đó,
thời
hạn
giải
quyết
tố
cáo
không
quá
30
ngày
kể
từ
ngày
thụ
lý
tố
cáo.
Đối
với
vụ
việc
phức
tạp
thì
có
thể
gia
hạn
giải
quyết
tố
cáo
một
lần
nhưng
không
quá
30
ngày.
Đối
với
vụ
việc
đặc
biệt
phức
tạp
thì
có
thể
gia
hạn
giải
quyết
tố
cáo
hai
lần,
mỗi
lần
không
quá
30
ngày.
-
Bổ
sung
quy
định
về
rút
tố
cáo.
Theo
đó,
người
tố
cáo
có
quyền
rút
toàn
bộ
nội
dung
tố
cáo
hoặc
một
phần
nội
dung
tố
cáo
trước
khi
người
giải
quyết
tố
cáo
ra
kết
luận
nội
dung
tố
cáo.
Việc
rút
tố
cáo
phải
được
thực
hiện
bằng
văn
bản.
Luật
cũng
quy
định
cụ
thể
việc
xử
lý
đối
với
các
trường
hợp
rút
tố
cáo
như
rút
toàn
bộ,
rút
một
phần,
rút
tố
cáo
trong
trường
họp
nhiều
người
cùng
tố
cáo,
trong
trường
hợp
người
tố
cáo
bị
đe
dọa,
mua
chuộc
hoặc
người
tố
cáo
lợi
dụng
việc
tố
cáo
để
vu
khống,
xúc
phạm,
gây
thiệt
hại
cho
người
bị
tố
cáo.
-
Bổ
sung
quy
định
về
tạm
đình
chỉ
giải
quyết
tố
cáo,
đình
chỉ
việc
giải
quyết
tố
cáo.
Theo
đó,
Luật
quy
định
cụ
thể
các
căn
cứ
để
tạm
đình
chỉ
hoặc
đình
chỉ.
-
Quy
định
cụ
thể
về
việc
tố
cáo
tiếp,
việc
xử
lý
đối
với
tố
cáo
tiếp
và
các
căn
cứ
để
giải
quyết
lại
vụ
việc
tố
cáo
nhằm
đảm
bảo
nguyên
tắc
mọi
hành
vi
vi
phạm
đều
được
giải
quyết
kịp
thời,
đúng
pháp
luật;
tránh
tình
trạng
bao
che
vi
phạm
nhưng
cũng
tránh
tình
trạng
tố
cáo
tràn
lan,
vượt
cấp.
Bên
cạnh
đó,
Luật
quy
định
về
việc
giải
quyết
tố
cáo
trong
trường
hợp
vụ
việc
quá
thời
hạn
quy
định
mà
không
được
giải
quyết.
6.
Giải
quyết
tố
cáo
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật
về
quản
lý
nhà
nước
trong
các
lĩnh
vực
Luật
tiếp
tục
kế
thừa
các
quy
định
của
Luật
Tố
cáo
năm
2011
về
giải
quyết
tố
cáo
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật
về
quản
lý
nhà
nước
trong
các
lĩnh
vực.
Theo
đó,
thẩm
quyền
giải
quyết
tố
cáo
được
xác
định
theo
nguyên
tắc:
Tố
cáo
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật
của
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
mà
nội
dung
liên
quan
đến
chức
năng
quản
lý
nhà
nước
của
cơ
quan
nào
thì
cơ
quan
đó
có
trách
nhiệm
giải
quyết.
Tố
cáo
nhiều
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật
thuộc
chức
năng
quản
lý
nhà
nước
của
nhiều
cơ
quan
thì
các
cơ
quan
trong
phạm
vi
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
của
mình
có
trách
nhiệm
phối
hợp
để
thống
nhất
xác
định
cơ
quan
có
thẩm
quyền
chủ
trì
giải
quyết
hoặc
báo
cáo
cơ
quan
quản
lý
nhà
nước
cấp
trên
quyết
định
giao
cho
một
cơ
quan
có
thẩm
quyền
chủ
trì
giải
quyết.
Tố
cáo
về
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật
thuộc
thẩm
quyền
giải
quyết
của
nhiều
cơ
quan
thì
cơ
quan
thụ
lý
đầu
tiên
có
thẩm
quyền
giải
quyết.
Về
trình
tự,
thủ
tục
giải
quyết,
về
cơ
bản
được
thực
hiện
như
đối
với
giải
quyết
tố
cáo
hành
vi
vi
phạm
của
cán
bộ,
công
chức,
viên
chức
trong
việc
thực
hiện
nhiệm
vụ,
công
vụ,
trừ
trường
hợp
tố
cáo
có
nội
dung
rõ
ràng,
chứng
cứ
cụ
thể,
có
cơ
sở
để
xử
lý
ngay.
Đối
với
trường
hợp
này
được
giải
quyết
theo
trình
tự
rút
gọn,
nhằm
xử
lý
nhanh
chóng
và
ngăn
chặn
kịp
thời
hành
vi
vi
phạm,
phù
hợp
với
tính
chất,
yêu
cầu
xử
lý
đối
với
các
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật
về
quản
lý
nhà
nước
trong
các
lĩnh
vực.
7.
Quy
định
rõ
về
bảo
vệ
người
tố
cáo
Bảo
vệ
người
tố
cáo
là
trách
nhiệm
của
Nhà
nước
nhằm
bảo
vệ,
khuyến
khích,
động
viên
người
dân
dũng
cảm
đấu
tranh
chống
lại
các
hành
vi
tham
nhũng,
tiêu
cực,
vi
phạm
pháp
luật,
giúp
các
cơ
quan
nhà
nước
phát
hiện
và
xử
lý
kịp
thời,
nghiêm
minh
các
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật.
Luật
Tố
cáo
năm
2018
đã
dành
01
chương
(Chương
VI)
quy
định
về
bảo
vệ
người
tố
cáo,
theo
đó,
người
được
bảo
vệ
bao
gồm:
Người
tố
cáo,
vợ,
chồng,
cha
đẻ,
mẹ
đẻ,
cha
nuôi,
mẹ
nuôi,
con
đẻ,
con
nuôi
của
người
tố
cáo.
Phạm
vi
bảo
vệ:
Bảo
vệ
bí
mật
thông
tin
của
người
tố
cáo,
bảo
vệ
vị
trí
công
tác,
việc
làm,
tính
mạng,
sức
khỏe,
tài
sản,
danh
dự,
nhân
phẩm
của
người
được
bảo
vệ.
Về
quyền
và
nghĩa
vụ
của
người
được
bảo
vệ,
người
được
bảo
vệ
có
các
quyền:
Được
biết
về
các
biện
pháp
bảo
vệ;
được
giải
thích
về
quyền
và
nghĩa
vụ
khi
được
áp
dụng
biện
pháp
bảo
vệ;
đề
nghị
thay
đổi,
bổ
sung,
chấm
dứt
việc
áp
dụng
biện
pháp
bảo
vệ;
từ
chối
áp
dụng
biện
pháp
bảo
vệ
và
được
bồi
thường
theo
quy
định
của
pháp
luật
về
trách
nhiệm
bồi
thường
của
Nhà
nước
trong
trường
hợp
người
tố
cáo
đã
đề
nghị
người
giải
quyết
tố
cáo,
cơ
quan
khác
có
thẩm
quyền
áp
dụng
biện
pháp
bảo
vệ
mà
không
áp
dụng
biện
pháp
bảo
vệ
hoặc
áp
dụng
không
kịp
thời,
không
đúng
quy
định
của
pháp
luật,
gây
thiệt
hại
về
tính
mạng,
sức
khỏe,
tài
sản,
tinh
thần
cho
người
được
bảo
vệ.
Bên
cạnh
đó,
người
được
bảo
vệ
có
nghĩa
vụ:
Chấp
hành
nghiêm
chỉnh
yêu
cầu
của
cơ
quan
có
thẩm
quyền
áp
dụng
biện
pháp
bảo
vệ;
giữ
bí
mật
thông
tin
về
việc
được
bảo
vệ;
thông
báo
kịp
thời
đến
cơ
quan
áp
dụng
biện
pháp
bảo
vệ
về
những
vấn
đề
phát
sinh
trong
thời
gian
được
bảo
vệ.
Ngoài
ra,
trình
tự,
thủ
tục
và
các
biện
pháp
bảo
vệ
cũng
được
cũng
được
quy
định
cụ
thể
trong
Luật.
Luật
quy
định
về
việc
đề
nghị
áp
dụng
biện
pháp
bảo
vệ;
xem
xét,
quyết
định
việc
áp
dụng
biện
pháp
bảo
vệ;
thay
đổi,
bổ
sung
biện
pháp
bảo
vệ
nếu
xét
thấy
cần
thiết
hoặc
trên
cơ
sở
đề
nghị
bằng
văn
bản
của
người
được
bảo
vệ
hay
chấm
dứt
việc
áp
dụng
biện
pháp
bảo
vệ./.
Vinh
Nguyễn
Nguồn:tạp
chí
dân
chủ
pháp
luật