Xác
định
đối
tượng
khiếu
nại
hành
chính
-
Thực
trạng
và
giải
pháp
Chủ
nhật
-
28/05/2023
21:36
Tóm
tắt:
Bài
viết
về
vấn
đề
xác
định
đối
tượng
khiếu
nại
hành
chính,
trong
đó,
tác
giả
có
so
sánh
với
đối
tượng
khởi
kiện
trong
vụ
án
hành
chính
và
đưa
ra
các
giải
pháp
hoàn
thiện.
1.
Những
vấn
đề
lý
luận
chung
về
đối
tượng
khiếu
nại
hành
chính
Khiếu
nại
hành
chính
là
quyền
của
cá
nhân
được
ghi
nhận
tại
Điều
30
Hiến
pháp
năm
2013:
“Mọi
người
có
quyền
khiếu
nại,
tố
cáo
với
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
về
những
việc
làm
trái
pháp
luật
của
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân”.
Khiếu
nại
hành
chính
thể
hiện
ý
chí
của
cá
nhân,
cơ
quan,
tổ
chức
khi
cho
rằng
hoạt
động
quản
lý
hành
chính
trái
pháp
luật
hoặc
không
hợp
lý.
Nó
là
phương
thức
để
họ
bảo
vệ
quyền
lợi
ích
hợp
pháp
của
mình
khi
bị
xâm
phạm
bởi
hoạt
động
quản
lý
hành
chính.
Theo
khoản
1
Điều
2
Luật
Khiếu
nại
năm
2011
thì:
“Khiếu
nại
là
việc
công
dân,
cơ
quan,
tổ
chức
hoặc
cán
bộ,
công
chức
theo
thủ
tục
do
luật
này
quy
định,
đề
nghị
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
xem
xét
lại
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính
của
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước,
của
người
có
thẩm
quyền
trong
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
hoặc
quyết
định
kỷ
luật
cán
bộ,
công
chức
khi
có
căn
cứ
cho
rằng
quyết
định
hoặc
hành
vi
đó
là
trái
pháp
luật,
xâm
phạm
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
mình”.
Chủ
thể
khiếu
nại
là
công
dân,
cơ
quan,
tổ
chức
có
liên
quan
đến
hoạt
động
quản
lý
hành
chính,
bị
điều
chỉnh
bởi
hành
vi
hành
chính
hoặc
ban
hành
quyết
định
hành
chính,
bắt
buộc
phải
thực
hiện
hoặc
tuân
theo.
Họ
tham
gia
vào
hoạt
động
quản
lý
hành
chính
đó,
khi
bị
yêu
cầu
thực
hiện
nội
dung
quản
lý
hành
chính,
họ
không
đồng
ý
vì
cho
rằng
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính
này
có
thể
làm
tổn
hại
đến
quyền
lợi
hoặc
ảnh
hưởng
đến
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
họ.
Chính
vì
sự
không
đồng
ý
đó,
họ
có
quyền
thể
hiện
ý
chí
dưới
hình
thức
yêu
cầu
người
đã
ban
hành
quyết
định
hoặc
đã
thực
hiện
hành
vi
hành
chí
đó
phải
xem
xét
lại
quyết
định
hoặc
hành
vi
hành
chính
của
mình.
Toàn
bộ
những
hoạt
động
này
được
gọi
dưới
tên
gọi
là
“hoạt
động
khiếu
nại”.
Ngoài
khiếu
nại
về
quyết
định
hành
chinh
hay
hành
vi
hành
chính
thì
họ
có
quyền
khiếu
nại
đối
với
quyết
định
kỷ
luật
cán
bộ,
công
chức.
Như
vậy,
có
thể
hiểu
đối
tượng
khiếu
nại
bao
gồm:
Quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính
và
quyết
định
kỷ
luật
cán
bộ,
công
chức.
Quyết
định
hành
chính
theo
quy
định
tại
khoản
8
Điều
2
Luật
Khiếu
nại
là
văn
bản
do
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
hoặc
người
có
thẩm
quyền
trong
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
ban
hành
để
quyết
định
về
một
vấn
đề
cụ
thể
trong
hoạt
động
quản
lý
hành
chính
nhà
nước
được
áp
dụng
một
lần
đối
với
một
hoặc
một
số
đối
tượng
cụ
thể.
Hành
vi
hành
chính
theo
quy
định
tại
khoản
9
Điều
2
Luật
Khiếu
nại
là
hành
vi
của
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước,
của
người
có
thẩm
quyền
trong
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
thực
hiện
hoặc
không
thực
hiện
nhiệm
vụ,
công
vụ
theo
quy
định
của
pháp
luật.
Còn
quyết
định
kỷ
luật
theo
quy
định
tại
khoản
10
Điều
2
Luật
Khiếu
nại
là
quyết
định
bằng
văn
bản
của
người
đứng
đầu
cơ
quan,
tổ
chức
để
áp
dụng
một
trong
các
hình
thức
kỷ
luật
đối
với
cán
bộ,
công
chức
thuộc
thẩm
quyền
quản
lý
của
mình.
1.1.
Các
dấu
hiệu
để
nhận
biết
đối
tượng
khiếu
nại
Thứ
nhất, dấu
hiệu
nhận
biết
quyết
định
hành
chính
là
đối
tượng
khiếu
nại
bao
gồm:
Chủ
thể
ban
hành
là
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
hoặc
người
có
thẩm
quyền
trong
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước.
Hiến
pháp
năm
2013
quy
định
các
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
là
bộ
phận
hợp
thành
của
bộ
máy
nhà
nước,
được
thành
lập
để
thực
hiện
chức
năng
quản
lý
hành
chính
nhà
nước. Cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
ở
trung
ương
gồm
có
Chính
phủ,
bộ,
cơ
quan
ngang
bộ,
các
cơ
quan
khác
thuộc
Chính
phủ.
Trong
đó
bộ,
cơ
quan
ngang
bộ
(gọi
tắt
là
cơ
quan
cấp
bộ)
là
cơ
quan
quản
lý
nhà
nước
có
thẩm
quyền
chuyên
môn
ở
trung
ương;
là
cơ
quan
chuyên
môn
được
tổ
chức
theo
chế
độ
thủ
trưởng,
đứng
đầu
là
các
Bộ
trưởng
hay
Chủ
nhiệm
Ủy
ban.
Các
cơ
quan
cấp
bộ
thực
hiện
chức
năng
quản
lý
nhà
nước
theo
ngành
-
quản
lý
chức
năng,
quản
lý
liên
ngành
hay
đối
với
lĩnh
vực
-
quản
lý
tổng
hợp
trên
phạm
vi
toàn
quốc.
Cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
địa
phương
là
những
cơ
quan
hành chính
nhà
nước
thay
mặt
chính
quyền
ở
địa
phương.
Người
có
thẩm
quyền
trong
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
là
người
đứng
đầu
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
hoặc
người
có
thẩm
quyền
(cán
bộ,
công
chức)
được
pháp
luật
quy
định
có
thể
thay
mặt
tập
thể
ký
ban
hành
các
quyết
định
hành
chính.
Về
nội
dung:
Quyết
định
hành
chính
là
văn
bản
được
ban
hành
để
quyết
định
về
một
vấn
đề
cụ
thể
trong
hoạt
động
quản
lý
hành
chính
nhà
nước,
là
hoạt
động
thực
thi
quyền
hành
pháp,
tức
là
hoạt
động
chấp
hành
và
điều
hành;
để
thực
hiện
chức
năng,
nhiệm
vụ
của
Nhà
nước
về
phát
triển
kinh
tế
-
xã
hội,
văn
hóa,
giáo
dục,
khoa
học,
công
nghệ,
môi
trường…
nhằm
duy
trì
trật
tự
an
ninh,
thỏa
mãn
nhu
cầu
hàng
ngày
của
nhân
dân.
Tính
cá
biệt
của
quyết
định
hành
chính:
Quyết
định
hành
chính
được
áp
dụng
một
lần
đối
với
một
hoặc
một
số
đối
tượng
cụ
thể.
Quyết
định
hành
chính
là
loại
văn
bản
do
các
cơ
quan
nhà
nước,
người
có
thẩm
quyền
ban
hành
theo
chức
năng,
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
của
mình
để
giải
quyết
những
vụ
việc
cụ
thể,
đối
với
những
đối
tượng
cụ
thể.
Ban
hành
quyết
định
hành
chính
cá
biệt
là
hình
thức
hoạt
động
chủ
yếu
của
các
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước,
đặc
biệt
là
cấp
cơ
sở.
Nội
dung
của
nó
là
áp
dụng
một
hay
nhiều
quy
phạm
pháp
luật
vào
một
trường
hợp
cụ
thể,
trong
những
điều
kiện
cụ
thể.
Việc
ban
hành
văn
bản
cá
biệt
làm
phát
sinh,
thay
đổi
hay
chấm
dứt
những
quan
hệ
pháp
luật
hành
chính
cụ
thể.
Chính
vì
thế,
nó
sẽ
có
thể
làm
phát
sinh
quyền
lợi,
nghĩa
vụ
nên
có
thể
bị
khiếu
nại
và
trở
thành
đối
tượng
khiếu
nại
hành
chính
Thứ
hai, dấu
hiệu
để
nhận
biết
hành
vi
hành
chính
là
đối
tượng
khiếu
nại
bao
gồm:
Về
mặt
chủ
thể
thì
hành
vi
hành
chính
là
hành
vi
của
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước,
của
người
có
thẩm
quyền
trong
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước.
Tức
là,
cùng
là
những
chủ
thể
có
thẩm
quyền
ban
hành
quyết
định
hành
chính.
Có
thể
là
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
theo
cấp
từ
trung
ương
đến
địa
phương
hoặc
người
có
thẩm
quyền
trong
các
cơ
quan
đó.
Tuy
nhiên,
về
mặt
nội
dung
thì
lại
thể
hiện
dưới
dạng
hành
động
hoặc
không
hành
động
(thực
hiện
hoặc
không
thực
hiện)
nhiệm
vụ,
công
vụ
theo
quy
định
của
pháp
luật.
Pháp
luật
quy
định
khi
thực
hiện
hoạt
động
quản
lý
hành
chính
của
mình
thì
những
chủ
thể
trên
đã
không
làm
hoặc
làm
không
đúng
chức
năng
nhiệm
vụ
mà
pháp
luật
bắt
buộc
họ
phải
làm
dẫn
tới
ảnh
hưởng
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
nên
họ
có
quyền
khiếu
nại
về
những
hành
vi
hành
chính
này.
Để
xác
định
khi
nào
là
nhiệm
vụ,
công
vụ
của
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
và
người
có
thẩm
quyền
trong
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
thì
cần
căn
cứ
vào
quy
định
của
pháp
luật
chuyên
ngành
cho
phép
họ
được
thực
hiện
hoặc
phải
thực
hiện
chức
năng
nhiệm
vụ
gì.
Tùy
theo
từng
lĩnh
vực
chuyên
ngành
mà
xác
định
hành
vi
hành
chính
của
cơ
quan
hành
chính,
người
có
thẩm
quyền
trong
cơ
quan
hành
chính
cho
chính
xác
để
hoạt
động
khiếu
nại
được
thụ
lý,
giải
quyết.
Thứ
ba, dấu
hiệu
để
nhận
biết
quyết
định
kỷ
luật
cán
bộ,
công
chức
là
đối
tượng
khiếu
nại:
Theo
quy
định
của
Điều
78
Luật
Cán
bộ,
công
chức
năm
2008
(sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2022)
các
hình
thức
xử
lý
kỷ
luật
đối
với
cán
bộ
là
khiển
trách,
cảnh
cáo,
cách
chức,
bãi
nhiệm.
Hình
thức
cách
chức
chỉ
áp
dụng
đối
với
cán
bộ
được
phê
chuẩn
giữ
chức
vụ
theo
nhiệm
kỳ.
Việc
áp
dụng
các
hình
thức
kỷ
luật,
thẩm
quyền,
trình
tự,
thủ
tục
xử
lý
kỷ
luật
cán
bộ
được
thực
hiện
theo
quy
định
của
pháp
luật,
điều
lệ
của
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam,
tổ
chức
chính
trị
-
xã
hội
và
văn
bản
của
cơ
quan,
tổ
chức
có
thẩm
quyền.
Các
hình
thức
kỷ
luật
đối
với
công
chức
được
quy
định
tại
Điều
79
Luật
Cán
bộ
công
chức
năm
2008
(sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2022),
có
những
hình
thức
kỷ
luật:
Khiển
trách,
cảnh
cáo,
hạ
bậc
lương,
giáng
chức,
cách
chức,
buộc
thôi
việc.
Với
hình
thức
kỷ
luật
giáng
chức,
cách
chức
chỉ
áp
dụng
đối
với
công
chức
giữ
chức
vụ
lãnh
đạo,
quản
lý;
hình
thức
hạ
bậc
lương
chỉ
áp
dụng
đối
với
công
chức
không
giữ
chức
vụ
lãnh
đạo,
quản
lý.
Dấu
hiệu
quan
trọng
nhất
và
để
xác
định
các
đối
tượng
khiếu
nại
trên
cần
xác
định
xem
chúng
có
xâm
phạm
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
đó
một
cách
trực
tiếp
hay
không.
Với
ba
loại
đối
tượng
khiếu
nại
hành
chính
nêu
trên
cũng
sẽ
bị
loại
trừ
theo
quy
định
tại
Điều
11
Luật
Khiếu
nại
đối
với
“các
khiếu
nại
không
được
thụ
lý
giải
quyết”,
đó
là:
Quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính
trong
nội
bộ
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
để
chỉ
đạo,
tổ
chức
thực
hiện
nhiệm
vụ,
công
vụ;
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính
trong
chỉ
đạo
điều
hành
của
cơ
quan
hành
chính
cấp
trên
với
cơ
quan
hành
chính
cấp
dưới.
Những
loại
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính
này
dù
có
chứa
đựng
đầy
đủ
các
dấu
hiệu
cấu
thành
của
một
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính
thì
cũng
không
là
đối
tượng
khiếu
nại
vì
nó
mang
tính
chất
quản
lý
hành
chính
nội
bộ
trong
cơ
quan,
tổ
chức
đó.
Loại
quyết
định
hành
chính
có
chứa
đựng
các
quy
phạm
pháp
luật
do
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
ban
hành
theo
trình
tự,
thủ
tục
của
pháp
luật
về
ban
hành
văn
bản
quy
phạm
pháp
luật
cũng
không
là
đối
tượng
khiếu
nại
vì
đây
là
loại
quyết
định
mang
tính
quy
phạm
để
áp
dụng
chung
cho
toàn
xã
hội
nên
không
thể
khiếu
nại.
Nếu
muốn
thay
đổi
quyết
định
mang
tính
chất
quy
phạm
thì
phải
thực
hiện
theo
trình
tự
thủ
tục
xây
dựng
luật,
nghị
định,
thông
tư…
Loại
thứ
ba
là
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính
thuộc
phạm
vi
bí
mật
nhà
nước
trong
các
lĩnh
vực
quốc
phòng,
an
ninh,
ngoại
giao
theo
danh
mục
do
Chính
phủ
quy
định
cũng
không
là
đối
tượng
khiếu
nại.
Đây
là
loại
quyết
định
hành
chính
mang
tính
chất
loại
trừ
của
Nhà
nước
trong
hoạt
động
quản
lý
hành
chính,
là
những
vấn
đề
“mang
tính
chất
sống
còn”
của
một
quốc
gia
nên
nó
được
Chính
phủ
quy
định
thành
danh
mục
riêng
và
nếu
đã
thuộc
danh
mục
này
thì
sẽ
không
là
đối
tượng
khiếu
nại.
Quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính
bị
khiếu
nại
không
liên
quan
trực
tiếp
đến
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
người
khiếu
nại
thì
dù
xác
định
là
đối
tượng
khiếu
nại
nhưng
cũng
không
được
thụ
lý
giải
quyết.
Bởi
vì,
người
khiếu
nại
không
thể
khiếu
nại
đối
với
một
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính
khi
nó
không
xâm
hại
trực
tiếp
đến
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
mình,
trừ
trường
hợp
họ
khiếu
nại
cho
người
chưa
thành
niên,
người
mất
năng
lực
hành
vi
dân
sự
theo
thủ
tục
mà
họ
sẽ
là
người
đại
diện
theo
pháp
luật…
Quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính
không
được
thụ
lý,
giải
quyết
khi
việc
khiếu
nại
đã
được
Tòa
án
thụ
lý
hoặc
đã
được
giải
quyết
bằng
bản
án,
quyết
định
của
Tòa
án,
trừ
quyết
định
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
hành
chính
của
Tòa
án.
Quy
định
này
nhằm
hạn
chế
cùng
một
sự
việc
nhưng
cả
hai
cơ
quan
cùng
thụ
lý
giải
quyết
là
Tòa
án
và
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước,
sẽ
dẫn
tới
chồng
chéo
trong
giải
quyết
nội
dung
sự
việc.
Luật
Tố
tụng
hành
chính
năm
2015
quy
định
khi
đồng
thời
vừa
có
đơn
khiếu
nại,
vừa
có
đơn
khởi
kiện
thì
người
đó
chỉ
có
thể
lựa
chọn
hoặc
khiếu
nại
đến
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước,
người
có
thẩm
quyền
trong
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
hoặc
khởi
kiện
tại
Tòa
án.
Đồng
thời,
Tòa
án
chỉ
thụ
lý
giải
quyết
việc
khởi
kiện
vụ
án
hành
chính
khi
cam
kết
không
đồng
thời
khiếu
nại
theo
thủ
tục
hành
chính.
1.2.
So
sánh
giữa
đối
tượng
khiếu
nại
hành
chính
với
đối
tượng
khởi
kiện
trong
vụ
án
hành
chính
Theo
quy
định
tại
Điều
30
Luật
Tố
tụng
hành
chính
năm
2015
thì
Tòa
án
sẽ
chỉ
thụ
lý
giải
quyết
những
loại
việc
sau:
(i)
Khiếu
kiện
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính
(trừ
các
quyết
định,
hành
vi
sau
đây:
Quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính
thuộc
phạm
vi
bí
mật
nhà
nước
trong
các
lĩnh
vực
quốc
phòng,
an
ninh,
ngoại
giao
theo
quy
định
của
pháp
luật;
quyết
định,
hành
vi
của
Tòa
án
trong
việc
áp
dụng
biện
pháp
xử
lý
hành
chính,
xử
lý
hành
vi
cản
trở
hoạt
động
tố
tụng;
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính
mang
tính
nội
bộ
của
cơ
quan,
tổ
chức).
(ii).
Khiếu
kiện
quyết
định
kỷ
luật
buộc
thôi
việc
công
chức
giữ
chức
vụ
từ
Tổng
Cục
trưởng
và
tương
đương
trở
xuống.
(iii)
Khiếu
kiện
quyết
định
giải
quyết
khiếu
nại
về
quyết
định
xử
lý
vụ
việc
cạnh
tranh.
(iv)
Khiếu
kiện
danh
sách
cử
tri.
Đây
là
những
loại
việc
được
xác
định
là
đối
tượng
khởi
kiện
trong
vụ
án
hành
chính.
Như
vậy,
có
những
loại
việc
quy
định
là
đối
tượng
khởi
kiện
sẽ
trùng
với
đối
tượng
khiếu
nại,
có
những
loại
việc
thì
sẽ
rộng
hơn
nhưng
cũng
có
những
loại
việc
sẽ
thu
hẹp
lại.
Ví
dụ:
Với
đối
tượng
khởi
kiện
là
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính
thì
việc
xác
định
đối
tượng
khởi
kiện
sẽ
rộng
hơn
đối
tượng
khiếu
nại.
Bởi
vì,
theo
quy
định
tại
khoản
1
Điều
3
Luật
Tố
tụng
hành
chính
năm
2015
thì
đối
tượng
khởi
kiện
khi
được
ban
hành
dưới
dạng
quyết
định
hành
chính
hoặc
thực
hiện
dưới
dạng
hành
vi
hành
chính
thì
được
mở
rộng
hơn
khi
chủ
thể
ban
hành
quyết
định
hành
chính
là
cá
nhân,
cơ
quan,
tổ
chức
được
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
trao
quyền
thực
hiện
hoạt
động
quản
lý
chuyên
ngành
đó
theo
quy
định
của
pháp
luật.
Tương
tự
như
vậy,
đối
với
hành
vi
hành
chính
cũng
được
mở
rộng
hơn
khi
chủ
thể
có
thẩm
quyền
thực
hiện
hành
vi
hành
chính
là
cá
nhân,
cơ
quan,
tổ
chức
được
trao
quyền
thực
hiện
hành
vi
hành
chính
đó
theo
quy
định
của
pháp
luật.
Với
đối
tượng
khởi
kiện
là
quyết
định
kỷ
luật
buộc
thôi
việc
thì
đối
tượng
khởi
kiện
bị
thu
hẹp
trong
phạm
vi
quyết
định
kỷ
luật
buộc
thôi
việc
đối
với
công
chức
giữ
chức
vụ
từ
Tổng
cục
trưởng
và
tương
đương
trở
xuống.
Còn
với
đối
tượng
khiếu
nại
thì
sẽ
là
quyết
định
kỷ
luật
đối
với
cán
bộ,
công
chức.
Quyết
định
kỷ
luật
với
cán
bộ
có
04
hình
thức
kỷ
luật
là
khiển
trách,
cảnh
cáo,
cách
chức,
bãi
nhiệm;
còn
đối
với
công
chức
có
06
hình
thức
kỷ
luật
là
khiển
trách,
cảnh
cáo,
hạ
bậc
lương,
giáng
chức,
cách
chức,
buộc
thôi
việc.
Duy
nhất
chỉ
có
quyết
định
kỷ
luật
buộc
thôi
việc
đối
với
công
chức
giữ
chức
vụ
từ
Tổng
cục
trưởng
và
tương
đương
trở
xuống
là
trở
thành
đối
tượng
khởi
kiện,
còn
lại
chỉ
là
đối
tượng
khiếu
nại
và
sẽ
không
được
phép
khởi
kiện
vụ
án
hành
chính.
Phạm
vi
khởi
kiện
đã
bị
thu
hẹp.
Tuy
nhiên,
điều
này
sẽ
mâu
thuẫn
với
quy
định
tại
khoản
3
Điều
116
Luật
Tố
tụng
hành
chính
năm
2015
về
thời
hiệu
khởi
kiện
là
quyết
định
giải
quyết
khiếu
nại
cũng
là
đối
tượng
khởi
kiện
vì
bản
thân
nó
là
quyết
định
hành
chính.
Với
đối
tượng
khởi
kiện
là
quyết
định
giải
quyết
khiếu
nại
về
quyết
định
xử
lý
vụ
việc
cạnh
tranh
thì
trình
tự
khiếu
nại
là
điều
kiện
bắt
buộc,
tiền
tố
tụng.
Đối
tượng
khiếu
nại
là
quyết
định
xử
lý
vụ
việc
cạnh
tranh.
Thực
ra,
đây
là
loại
quyết
định
theo
trình
tự
thủ
tục
xử
lý
vụ
việc
cạnh
tranh
theo
Luật
Cạnh
tranh
thuộc
lĩnh
vực
kinh
doanh
thương
mại.
Nó
chỉ
mang
yếu
tố
quản
lý
nhà
nước
khi
có
việc
khiếu
nại
quyết
định
xử
lý
cạnh
tranh
này
và
người
có
thẩm
quyền
giải
quyết
khiếu
nại
sẽ
ban
hành
quyết
định
giải
quyết
khiếu
nại
đối
với
quyết
định
xử
lý
vụ
việc
cạnh
tranh.
Quyết
định
này
trở
thành
đối
tượng
khởi
kiện
trong
vụ
án
hành
chính.
2.
Thực
trạng
và
giải
pháp
về
việc
xác
định
đối
tượng
khiếu
nại
hành
chính
trong
hoạt
động
quản
lý
hành
chính
hiện
nay
Trong
thực
tế,
việc
xác
định
đối
tượng
khiếu
nại
theo
quy
định
của
Luật
Khiếu
nại
còn
gặp
nhiều
khó
khăn
và
vướng
mắc,
cụ
thể:
Thứ
nhất, chưa
có
sự
thống
nhất
về
khái
niệm
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính.
Theo
quy
định
của
Luật
Khiếu
nại
thì
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính
chỉ
là
quyết
định
và
hành
vi
của
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước,
người
có
thẩm
quyền
trong
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước.
Còn
khái
niệm
về
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính
theo
quy
định
của
Luật
Tố
tụng
hành
chính
năm
2015
thì
còn
mở
rộng
chủ
thể
ban
hành,
thực
hiện
hành
vi
là
cá
nhân,
cơ
quan,
tổ
chức
và
người
có
thẩm
quyền
trong
cơ
quan,
tổ
chức
đó.
Theo
quy
định
của
pháp
luật
chuyên
ngành
cụ
thể
sẽ
giao
quyền
cho
cá
nhân,
cơ
quan,
tổ
chức
đó
thực
hiện
hoạt
động
quản
lý
hành
chính
nên
hoạt
động
quản
lý
hành
chính
đó
sẽ
được
xem
là
đối
tượng
khởi
kiện.
Nếu
đã
là
đối
tượng
khởi
kiện
thì
nó
nên
là
đối
tượng
khiếu
nại
vì
họ
có
quyền
có
ý
kiến
khi
cho
rằng
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính
đó
xâm
phạm
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
mình.
Khi
người
bị
xâm
hại
thể
hiện
ý
chí
phản
ứng
ngay
đối
với
người
ban
hành
quyết
định
hành
chính
hoặc
thực
hiện
hành
vi
hành
chính
bằng
hình
thức
khiếu
nại
trực
tiếp
thì
người
đó
có
cơ
hội
để
xem
xét,
khắc
phục
kịp
thời;
giảm
thiểu
thời
gian,
chi
phí
tố
tụng
khi
khởi
kiện
ra
tòa
án
nhân
dân.
Mặc
dù
quy
định
như
vậy,
nhưng
trong
thực
tế,
cá
nhân,
cơ
quan,
tổ
chức
và
người
có
thẩm
quyền
trong
cơ
quan
tổ
chức
được
giao
thực
hiện
hoạt
động
quản
lý
vẫn
tiến
hành
giải
quyết
khiếu
nại
khi
có
đơn
khiếu
nại.
Chính
vì
vậy,
cần
hoàn
thiện
quy
định
của
pháp
luật,
đó
là
đồng
nhất
khái
niệm
về
quyết
định
hành
chính,
hành
vi
hành
chính
của
Luật
Khiếu
nại
và
Luật
Tố
tụng
hành
chính
năm
2015.
Thứ
hai, nếu
đã
quy
định
đối
tượng
khiếu
nại
là
quyết
định
kỷ
luật
đối
với
cán
bộ,
công
chức
thì
nên
quy
định
mở
rộng
đối
tượng
khởi
kiện
cũng
là
quyết
định
kỷ
luật
đối
với
cán
bộ,
công
chức.
Vì
hình
thức
kỷ
luật
cán
bộ,
hình
thức
kỷ
luật
công
chức
có
rất
nhiều
hình
thức.
Đã
bị
kỷ
luật,
tức
là
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
có
thể
sẽ
bị
xâm
hại
nên
ngoài
việc
họ
có
quyền
khiếu
nại
thì
nên
cho
họ
quyền
khởi
kiện.
Hiện
nay,
Luật
Tố
tụng
hành
chính
năm
2015
chỉ
cho
khởi
kiện
đối
với
quyết
định
xử
lý
kỷ
luật
buộc
thôi
việc
đối
với
công
chức
giữ
chức
vụ
từ
Tổng
cục
trưởng
và
tương
đương
trở
xuống.
Giải
pháp
đặt
ra
là
hoàn
thiện
quy
định
pháp
luật,
cần
bổ
sung
trong
Luật
Tố
tụng
hành
chính
năm
2015,
mở
rộng
thêm
đối
tượng
khởi
kiện
là
quyết
định
kỷ
luật
đối
với
cán
bộ,
công
chức.
Thứ
ba, nên
mở
rộng
đối
tượng
khiếu
nại
ngoài
việc
được
khiếu
nại
quyết
định
kỷ
luật
đối
với
cán
bộ,
công
chức
thì
cán
bộ,
công
chức
cũng
có
quyền
khiếu
nại
đối
với
các
quyết
định
quản
lý
hành
chính
khác
của
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
như:
Quyết
định
nâng
lương,
hạ
bậc
lương,
cho
hưởng
hoặc
cắt
chế
độ
chính
sách…
Đây
là
các
quyết
định
hành
chính
có
ảnh
hưởng
trực
tiếp
đến
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
cán
bộ,
công
chức.
Đây
là
quyền
lợi
thiết
thực
khi
cán
bộ,
công
chức
được
hưởng
các
chế
độ
liên
quan
đến
lương,
chính
sách…
Giải
pháp
đưa
ra
đối
với
vướng
mắc
này
là
quy
định
thêm
trong
điều
luật
về
đối
tượng
khiếu
nại.
Thứ
tư, mở
rộng
quyền
khiếu
nại
đối
với
văn
bản
quy
phạm
pháp
luật. Pháp
luật
khiếu
nại
giới
hạn
chỉ
cho
phép
công
dân,
tổ
chức
khiếu
nại
đối
với
các
quyết
định
hành
chính
cá
biệt
ảnh
hưởng
trực
tiếp
đến
quyền
lợi,
lợi
ích
hợp
pháp
của
các
cá
nhân,
tổ
chức,
chưa
cho
phép
khiếu
nại
đối
với
các
văn
bản
quy
phạm
pháp
luật.
Pháp
luật
khiếu
nại
cần
sửa
đổi,
bổ
sung
cho
phép
công
dân
có
quyền
khiếu
nại
đối
với
các
văn
bản
quy
phạm
pháp
luật
do
cơ
quan
nhà
nước
có
thẩm
quyền
ở
địa
phương
ban
hành
khi
cho
rằng
văn
bản
đó
trái
pháp
luật
gây
ảnh
hưởng
đến
quyền
lợi
của
họ.
Ví
dụ,
quyết
định
về
khung
giá
đất
tại
địa
phương…
vấn
đề
này
là
cần
thiết
và
hợp
lý,
đây
là
những
vấn
đề
pháp
lý
liên
quan
đến
văn
bản
quy
phạm
pháp
luật
nhưng
lại
gây
bức
xúc
và
khiếu
nại,
khiếu
kiện
nhiều
khi
việc
áp
dụng
khung
giá
đất
bằng
việc
ban
hành
các
quyết
định
hành
chính
cá
biệt
làm
căn
cứ
bồi
thường,
giải
phóng
mặt
bằng
và
ảnh
hưởng
đến
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
người
dân.
ThS.
Nguyễn
Thị
Thúy
Hà
Học
viện
Tư
pháp
Những
tin
cũ
hơn
Cơ
quan
chủ
quản:
THANH
TRA
THÀNH
PHỐ
TAM
KỲ-
TỈNH
QUẢNG
NAM
Địa
chỉ
cơ
quan:
70
Hùng
Vương -Thành
phố
Tam
Kỳ-
Tỉnh
Quảng
Nam
Điện
thoại: 0235.3810268
Chịu
trách
nhiệm
nội
dung:
Thanh
phố
Tam
Kỳ.
Ghi
rõ
nguồn
'http://thanhtratamky.gov.vn'
khi
bạn
phát
hành
lại
thông
tin
từ
Website
này.