Một
số
vướng
mắc,
bất
cập
của
quy
định
về
“phân
cấp,
ủy
quyền”
theo
Luật
Tổ
chức
chính
quyền
địa
phương
Chủ
nhật
-
28/11/2021
01:34
Ngày
19/6/2015,
Quốc
hội
nước
Công
hòa
xã
hội
chủ
nghĩa
Việt
Nam
khóa
XIII,
kỳ
họp
thứ
9
thông
qua
Luật
Tổ
chức
chính
quyền
địa
phương,
Luật
này
có
hiệu
lực
thi
hành
từ
ngày
01/01/2016.
Sau
hơn
03
năm
triển
khai
thực
hiện,
ngày
22/11/2019,
Quốc
hội
nước
Công
hòa
xã
hội
chủ
nghĩa
Việt
Nam
khóa
XIV,
kỳ
họp
thứ
8
thông
qua
Luật
Sửa
đổi,
bổ
sung
một
số
điều
của
Luật
Tổ
chức
chính
phủ
và
Luật
Tổ
chức
chính
quyền
địa
phương.
Luật
Sửa
đổi,
bổ
sung
một
số
điều
của
Luật
Tổ
chức
chính
phủ
và
Luật
Tổ
chức
chính
quyền
địa
phương
năm
2015
có
hiệu
lực
thi
hành
từ
ngày
01/7/2020,
theo
đó,
một
trong
những
nội
dung
được
sửa
đổi,
bổ
sung
nhằm
cụ
thể,
rõ
ràng
và
hoàn
thiện
hơn
đó
là
quy
định
về
“phân
cấp
cho
chính
quyền
địa
phương
và
ủy
quyền
cho
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
ở
địa
phương”.
Tuy
nhiên,
trong
quá
trình
nghiên
cứu,
áp
dụng
Luật
Tổ
chức
chính
quyền
địa
phương
năm
2015
cũng
như
Luật
Sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2019
trong
thực
tiễn
vẫn
còn
một
số
khó
khăn,
vướng
mắc
cụ
thể
như
sau:
Một
số
vướng
mắc,
bất
cập
của
quy
định
về
“phân
cấp,
ủy
quyền”
theo
Luật
Tổ
chức
chính
quyền
địa
phương
1.
Chủ
thể
của
việc
phân
cấp
và
ủy
quyền
1.1.
Về
chủ
thể
của
việc
phân
cấp
Tại
khoản
1
Điều
13
Luật
Ban
hành
văn
bản
quy
phạm
pháp
luật
năm
2015
quy
định:
“Căn
cứ
vào
yêu
cầu
công
tác,
khả
năng
thực
hiện
và
điều
kiện,
tình
hình
cụ
thể
của
địa
phương,
cơ
quan
nhà
nước
ở
trung
ương
và
địa
phương
được
quyền
phân
cấp
cho
chính
quyền
địa
phương
hoặc
cơ
quan
nhà
nước
cấp
dưới
thực
hiện
một
cách
liên
tục,
thường
xuyên
một
hoặc
một
số
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
thuộc
thẩm
quyền
của
mình,
trừ
trường
hợp
pháp
luật
có
quy
định
khác”.
Như
vậy,
chủ
thể
phân
cấp
là
cơ
quan
nhà
nước
ở
trung
ương
và
địa
phương,
tuy
nhiên
không
phải
mọi
cơ
quan
nhà
nước
ở
địa
phương
đều
có
thể
thực
hiện
việc
phân
cấp
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
thuộc
thẩm
quyền
của
mình
vì
việc
phân
cấp
phải
được
quy
định
trong
văn
bản
quy
phạm
pháp
luật
(QPPL)[1].
Trong
khi
đó,
theo
quy
định
của
Luật
Ban
hành
văn
bản
quy
phạm
pháp
luật
năm
2015,
chỉ
có
Hội
đồng
nhân
dân
(HĐND)
và
Ủy
ban
nhân
dân
(UBND)
các
cấp
được
ban
hành
văn
bản
QPPL
(trong
đó,
HĐND
và
UBND
cấp
huyện,
cấp
xã
chỉ
ban
hành
văn
bản
QPPL
trong
trường
hợp
được
Luật,
Nghị
quyết
của
Quốc
hội
giao).
Cũng
theo
quy
định
tại
khoản
1
Điều
13
Luật
Ban
hành
văn
bản
quy
phạm
pháp
luật
năm
2015
thì
chủ
thể
được
phân
cấp
bao
gồm
chính
quyền
địa
phương
và
cơ
quan
nhà
nước
cấp
dưới.
Trong
thực
tế,
trên
cơ
sở
chức
năng
và
vị
trí
pháp
lý
của
HĐND
và
UBND
theo
quy
định
pháp
luật
thì
cơ
quan
được
phân
cấp
thường
là
UBND
để
đảm
bảo
việc
triển
khai
thực
hiện
nhiệm
vụ
được
nhanh
chóng,
thuận
tiện.
Tuy
nhiên,
để
xác
định
chủ
thể
được
phân
cấp
theo
quy
định
tại
khoản
1
Điều
13
Luật
Tổ
chức
chính
quyền
địa
phương
năm
2015
cũng
còn
nhiều
vướng
mắc,
bấp
cập.
Xét
nội
dung
“cơ
quan
nhà
nước
ở
địa
phương
được
quyền
phân
cấp
cho
chính
quyền
địa
phương
hoặc
cơ
quan
nhà
nước
cấp
dưới”
thì
có
thể
thấy
khái
niệm
“cơ
quan
nhà
nước
ở
địa
phương”
ở
đây
là
một
khái
niệm
rộng
và
việc
xác
định
“cơ
quan
nhà
nước
ở
địa
phương”
là
những
nhóm
cơ
quan
cụ
thể
nào
thì
sẽ
phụ
thuộc
vào
các
quy
định
pháp
luật
khác
(chẳng
hạn
như
khoản
2
Điều
13
Luật
Tổ
chức
chính
quyền
địa
phương
năm
2015).
Bên
cạnh
đó,
việc
xác
định
đối
tượng
được
phân
cấp
sẽ
là
chính
quyền
địa
phương
cấp
dưới
và
cơ
quan
nhà
nước
cấp
dưới
hay
chính
quyền
địa
phương
(bao
gồm
chính
quyền
địa
phương
cùng
cấp
với
cơ
quan
nhà
nước
ở
địa
phương
thực
hiện
hiện
việc
phân
cấp)
và
cơ
quan
nhà
nước
cấp
dưới
cũng
chưa
đảm
bảo
thống
nhất.
Đồng
thời,
hiện
nay
cũng
chưa
có
quy
định,
văn
bản
nào
hướng
dẫn
cụ
thể
“cơ
quan
nhà
nước
cấp
dưới”
là
cơ
quan
nào
hay
việc
xác
định
“cơ
quan
nhà
nước
cấp
dưới”
dựa
trên
những
tiêu
chí
nào.
Trên
thực
tế,
có
một
số
luật
chuyên
ngành
khi
phân
quyền
cho
mỗi
cấp
chính
quyền
địa
phương
còn
quy
định
liên
quan
đến
việc
thực
hiện
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
được
phân
quyền,
tuy
nhiên,
giữa
nội
dung
do
luật
chuyên
ngành
và
Luật
Tổ
chức
chính
quyền
địa
phương
năm
2015
quy
định
vẫn
còn
có
sự
chưa
thống
nhất.
Chẳng
hạn
như:
-
Tại
khoản
7
Điều
17
Luật
Đầu
tư
công
năm
2019
quy
định:
“7.
Hội
đồng
nhân
dân
các
cấp
quyết
định
chủ
trương
đầu
tư
chương
trình,
dự
án
nhóm
B,
nhóm C sử
dụng
vốn
ngân
sách
địa
phương,
bao
gồm
cả
vốn
bổ
sung
có
mục
tiêu
từ
ngân
sách
cấp
trên,
các
nguồn
vốn
hợp
pháp
của
địa
phương
thuộc
cấp
mình
quản
lý,
trừ
dự
án
quy
định
tại
khoản
4
Điều
này.
Trong
trường
hợp
cần
thiết,
Hội
đồng
nhân
dân
quyết
định
việc
giao
cho
Ủy
ban
nhân
dân
cùng
cấp
quyết
định
chủ
trương
đầu
tư
dự
án
quy
định
tại
khoản
này
phù
hợp
với
mục
tiêu,
định
hướng
phát triển,
khả
năng
tài
chính
và
đặc
điểm
cụ
thể
của
địa
phương”.
-
Luật
Quản
lý,
sử
dụng
tài
sản
công
năm
2017
quy
định:
+
“2.
Căn
cứ
quy
định
của
Luật
này,
phân
cấp
của
Chính
phủ,
Hội
đồng
nhân
dân
cấp
tỉnh
quyết
định
hoặc
phân
cấp
thẩm
quyền
quyết
định
trong
việc
quản
lý,
sử
dụng
tài
sản
công
thuộc
phạm
vi
quản
lý
của
địa
phương”
(tại
khoản
2
Điều
17).
+
“5.
Căn
cứ
quy
định
của
cơ
quan,
người
có
thẩm
quyền
tại
các
khoản
1,
2
và
3
Điều
này,
sau
khi
có
ý
kiến
thống
nhất
của
Thường
trực
Hội
đồng
nhân
dân
cùng
cấp,
Ủy
ban
nhân
dân
cấp
tỉnh
quyết
định
hoặc
phân
cấp
thẩm
quyền
quyết
định
áp
dụng
tiêu
chuẩn,
định
mức
sử
dụng
tài
sản
chuyên
dùng
tại
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị
thuộc
phạm
vi
quản
lý,
trừ
trường
hợp
quy
định
tại
khoản
7
Điều
này
(khoản
5
Điều
26)”.
-
Nghị
định
số
151/2017/NĐ-CP
ngày
26/12/2017
của
Chính
phủ
quy
định
chi
tiết
một
số
điều
của
Luật
quản
lý,
sử
dụng
tài
sản
công,
quy
định:
+
“c)
Hội
đồng
nhân
dân
cấp
tỉnh
quyết
định
hoặc
phân
cấp
thẩm
quyền
quyết
định
điều
chuyển
tài
sản
công
giữa
các
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị
thuộc
phạm
vi
quản
lý
của
địa
phương.
Trường
hợp
phân
cấp
thẩm
quyền
quyết
định
điều
chuyển
tài
sản
công
thì
thực
hiện
theo
nguyên
tắc
Chủ
tịch
Ủy
ban
nhân
dân
cấp
tỉnh
hoặc
Giám
đốc
Sở
Tài
chính
quyết
định
điều
chuyển
tài
sản
công
giữa
các
sở,
ngành
thuộc
địa
phương,
giữa
cấp
tỉnh
và
cấp
huyện,
cấp
xã,
giữa
các
quận,
huyện,
thị
xã,
thành
phố
trực
thuộc
tỉnh,
thành
phố
trực
thuộc
trung
ương”.
(tại
điểm
c
khoản
1
Điều
20).
+
“d)
Hội
đồng
nhân
dân
cấp
tỉnh
quyết
định
hoặc
phân
cấp
thẩm
quyền
quyết
định
bán
tài
sản
công
thuộc
phạm
vi
quản
lý
của
địa
phương.
Trường
hợp
phân
cấp
thẩm
quyền
quyết
định
bán
tài
sản
là
trụ
sở
làm
việc,
Hội
đồng
nhân
dân
cấp
tỉnh
phân
cấp
cho
Chủ
tịch
Ủy
ban
nhân
dân
cấp
tỉnh
quyết
định”
(điểm
d
khoản
2
Điều
22).
Qua
những
quy
định
này
có
thể
thấy,
việc
sử
dụng
thuật
ngữ
“phân
cấp”
hay
“ủy
quyền”
chưa
thống
nhất.
Chẳng
hạn
như
thuật
ngữ
“giao”
tại
khoản
7
Điều
17
Luật
Đầu
tư
công
năm
2019
có
nghĩa
là
“phân
cấp”,
“ủy
quyền”
hay
một
ý
nghĩa
khác.
Theo
Luật
Quản
lý,
sử
dụng
tài
sản
công
và
Nghị
định
151/2017/NĐ-CP
thì
chủ
thể
được
phân
cấp
có
thể
là
“Chủ
tịch
UBND
cấp
tỉnh”
hoặc
“Sở
Tài
chính”,
nếu
đối
chiếu
với
quy
định
của
Luật
năm
2015
thì
chủ
thể
này
có
thuộc
nhóm
chủ
thể
được
phân
cấp
hay
không
cũng
là
một
vấn
đề
mà
còn
nhiều
quan
điểm
khác
nhau.
1.2.
Về
chủ
thể
của
việc
ủy
quyền
Tại
khoản
7
Điều
2
Luật
Sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2019
quy
định:
“Trong
trường
hợp
cần
thiết,
trừ
trường
hợp
quy
định
tại
khoản
1
Điều
12
của
Luật
này,
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
cấp
trên
có
thể
ủy
quyền
cho
Ủy
ban
nhân
dân
cấp
dưới
trực
tiếp,
Ủy
ban
nhân
dân
có
thể
ủy
quyền
cho
cơ
quan
chuyên
môn
thuộc
Ủy
ban
nhân
dân
cùng
cấp
hoặc
đơn
vị
sự
nghiệp
công
lập
trực
thuộc,
Chủ
tịch Ủy ban
nhân
dân
có
thể
ủy
quyền
cho
Phó
Chủ
tịch
Ủy
ban
nhân
dân
cùng cấp,
người
đứng
đầu
cơ
quan
chuyên
môn
thuộc
Ủy
ban
nhân
dân
cùng
cấp,
Chủ
tịch
Ủy
ban
nhân
dân
cấp
dưới
trực
tiếp
thực
hiện
một
hoặc
một
số
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
của
mình
trong
khoảng
thời
gian
xác
định
kèm
theo
các
điều
kiện
cụ
thể.
Việc
ủy
quyền
phải
được
thể
hiện
bằng
văn
bản”.
Về
cơ
bản,
Luật
Sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2019
đã
quy
định
về
chủ
thể
ủy
quyền
và
chủ
thể
được
ủy
quyền
rõ
ràng,
cụ
thể
hơn
so
với
Luật
năm
2015,
đồng
thời
Luật
Sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2019
cũng
đã
giới
hạn
chủ
thể
được
ủy
quyền
nhằm
đảm
bảo
việc
ủy
quyền
cho
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
ở
địa
phương
thực
hiện
chặt
chẽ,
hiệu
quả
hơn,
tránh
việc
ủy
quyền
tràn
lan
trong
các
lĩnh
vực
quản
lý
nhà
nước.
Tuy
nhiên,
liên
quan
đến
chủ
thể
ủy
quyền
cũng
cần
phải
làm
rõ
khái
niệm
“cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
cấp
trên”
là
cơ
quan
hay
nhóm
cơ
quan
cụ
thể
nào.
2.
Phân cấp
và
ủy
quyền
-
Tại
khoản
4
Điều
13
Luật
năm
2015,
quy
định:
“Cơ
quan
nhà
nước
được
phân
cấp
chịu
trách
nhiệm
trước
cơ
quan
nhà
nước
đã
phân
cấp
về
việc
thực
hiện
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
được
phân
cấp.
Căn
cứ
tình
hình
cụ
thể
ở
địa
phương,
cơ
quan
nhà
nước
ở
địa
phương
có
thể
phân
cấp
tiếp
cho
chính
quyền
địa
phương
hoặc
cơ
quan
nhà
nước
cấp
dưới
thực
hiện
các
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
đã
được
cơ
quan
nhà
nước
cấp trên phân
cấp
nhưng
phải
được
sự
đồng
ý
của
cơ
quan
nhà
nước
đã
phân
cấp”.
-
Tại
khoản
3
Điều
14
Luật
năm
2015,
quy
định: “Cơ
quan,
tổ
chức
được
ủy
quyền
phải
thực
hiện
đúng
nội
dung
và
chịu
trách
nhiệm
trước
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
cấp
trên
về
việc
thực
hiện
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
mà
mình
được
ủy
quyền.
Cơ
quan,
tổ
chức
nhận
ủy
quyền
không
được
ủy
quyền
tiếp
cho
cơ
quan,
tổ
chức
khác
thực
hiện
các
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
đã
được
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
cấp
trên
ủy
quyền”.
Như
vậy,
trong
trường
hợp
phân
cấp
thì
cơ
quan
nhà
nước
ở
địa
phương
có
thể
phân
cấp
tiếp
cho
chính
quyền
địa
phương
hoặc
cơ
quan
nhà
nước
cấp
dưới
thực
hiện
các
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
đã
được
cơ
quan
nhà
nước
cấp trên phân
cấp
nhưng
phải
được
sự
đồng
ý
của
cơ
quan
nhà
nước
đã
phân
cấp.
Tuy
nhiên,
khi
thực
hiện
việc
phân
cấp
tiếp
thì
cơ
quan
phân
cấp
tiếp
cũng
phải
là
cơ
quan
có
thẩm
quyền
ban
hành
văn
bản
quy
phạm
pháp
luật
để
quy
định
nội
dung
phân
cấp
để
đảm
bảo
phù
hợp
với
quy
định
tại
khoản
2
Điều
13
Luật
năm
2015;
đồng
thời
“sự
đồng
ý
của
cơ
quan
nhà
nước
đã
phân
cấp”
cũng
phải
được
thể
hiện
bằng
văn
bản
quy
phạm
pháp
luật
để
đảm
bảo
phù
hợp
với
quy
định
tại
khoản
2
Điều
13
Luật
năm
2015
và
Điều
12
Luật
Ban
hành
văn
bản
quy
phạm
pháp
luật
năm
2015.
Tuy
nhiên,
đối
với
trường
hợp
ủy
quyền
thì
Luật
năm
2015
chỉ
quy
định
“Cơ
quan,
tổ
chức
nhận
ủy
quyền
không
được
ủy
quyền
tiếp
cho
cơ
quan,
tổ
chức
khác
thực
hiện
các
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
đã
được
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
cấp
trên
ủy
quyền”,
vậy
trường
hợp
cá
nhân
nhận
ủy
quyền
(chẳng
hạn
như
trường
hợp:
Phó
Chủ
tịch
UBND
hoặc
người
đứng
đầu
cơ
quan
chuyên
môn
thuộc
UBND
được
Chủ
tịch
UBND
cùng
cấp
ủy
quyền)
thì
có
được
ủy
quyền
tiếp
cho
cá
nhân
khác
thực
hiện
các
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
đã
được
người
có
thẩm
quyền
ủy
quyền
hay
không,
vấn
đề
này
Luật
năm
2015
cũng
như
Luật
Sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2019
chưa
đề
cập
đến.
3.
Xác
định
căn
cứ
pháp
lý
để
phân
cấp
hoặc
ủy
quyền
Trên
thực
tế,
khi
áp
dụng
quy
định
về
cơ
chế
phân
cấp
hoặc
ủy
quyền
vẫn
tồn
tại
hai
luồng
quan
điểm
khác
nhau.
Luồng
quan
điểm
thứ
nhất
cho
rằng:
Quy
định
về
phân
cấp,
ủy
quyền
theo
Luật
Tổ
chức
chính
quyền
địa
phương
là
quy
định
chung
về
thẩm
quyền,
trách
nhiệm
của
UBND
và
Chủ
tịch
UBND
các
cấp,
để
thực
hiện
việc
phân
cấp
hoặc
ủy
quyền
thì
phải
được
quy
định
cụ
thể
tại
văn
bản
pháp
luật
chuyên
ngành.
Tuy
nhiên,
luồng
quan
điểm
thứ
hai
cho
rằng:
Luật
Tổ
chức
chính
quyền
địa
phương
là
cơ
sở
pháp
lý
cụ
thể
để
các
chủ
thể
thực
hiện
việc
phân
cấp
hoặc
ủy
quyền.
Hiện
nay,
một
số
văn
bản
pháp
luật
chuyên
ngành
có
quy
định
về
việc
phân
cấp,
ủy
quyền
tuy
nhiên
đây
chỉ
là
một
số
ít
văn
bản
có
quy
định
cụ
thể
về
việc
phân
cấp,
ủy
quyền
còn
phần
lớn
không
có
quy
định
liên
quan
đến
việc
phân
cấp,
ủy
quyền
trong
văn
bản.
Chẳng
hạn
như:
Tại
khoản
3
Điều
84
Luật
Đầu
tư
công
năm
2019
quy
định:
“Chủ
tịch
Ủy
ban
nhân
dân
cấp
tỉnh
được
ủy
quyền
cho
cấp
phó
hoặc
người
đứng
đầu
cơ
quan
chuyên
môn
quyết
định
đầu
tư
đối
với
dự
án
nhóm
B,
nhóm C thuộc
cấp
tỉnh
quản
lý,
trừ
dự
án
quy
định
tại
điểm
c
khoản
1
Điều
35
của
Luật
này”.
Đồng
thời,
Luật
Đầu
tư
công
năm
2019
cũng
không
có
quy
định
ngoài
trường
hợp
quy
định
tại
khoản
3
Điều
84
Luật
này
thì
Chủ
tịch
UBND
cấp
tỉnh
không
được
ủy
quyền.
Như
vậy,
khi
áp
dụng
Luật
năm
2015
và
Luật
Đầu
tư
công
năm
2019
sẽ
có
sự
không
thống
nhất
như
đã
trình
bày
hai
luồng
quan
điểm
áp
dụng
nêu
trên.
Tuy
nhiên,
có
một
vấn
đề
là
nếu
áp
dụng
theo
luồng
quan
điểm
thứ
hai
thì
sẽ
dẫn
đến
cách
hiểu
là
những
quy
định
như
khoản
3
Điều
84
Luật
Đầu
tư
công
năm
2019
là
không
cần
thiết
vì
nếu
không
có
khoản
3
Điều
84
Luật
Đầu
tư
công
năm
2019
thì
Chủ
tịch
UBND
tỉnh
vẫn
căn
cứ
Luật
năm
2015
để
ủy
quyền
được.
4.
Hình
thức
văn
bản
phân
cấp,
ủy
quyền
Hình
thức
văn
bản
phân
cấp
được
Luật
năm
2015
quy
định
rõ
là
“văn
bản
QPPL”,
tuy
nhiên
Luật
năm
2015
chỉ
quy
định
việc
ủy
quyền
phải
được
thể
hiện
bằng
văn
bản,
không
quy
định
cụ
thể
hình
thức
văn
bản
là
văn
bản
QPPL
hay
văn
bản
hành
chính
và
nếu
trường
hợp
là
văn
bản
hành
chính
thì
cụ
thể
là
loại
văn
bản
nào.
Trên
thực
tế,
việc
ủy
quyền
được
thể
hiện
bằng
văn
bản
hành
chính
và
dưới
dạng
Quyết
định,
Công
văn
hoặc
Thông
báo,
trong
đó
phổ
biến
nhất
là
dưới
dạng
Quyết
định.
Tuy
nhiên,
trong
thực
tiễn
áp
dụng
pháp
luật,
một
số
cơ
quan,
đơn
vị
yêu
cầu
việc
ủy
quyền
phải
bằng
“Quyết
định
cá
biệt”,
không
chấp
thuận
các
hình
thức
văn
bản
ủy
quyền
khác.
Kết
luận: Nghị
quyết
số
18-NQ/TW
Hội
nghị
Trung
ương
lần
thứ
6,
khóa
XII
đã
khẳng
định
“Thực
hiện
phân
cấp,
phân
quyền
mạnh
mẽ,
hợp
lý
giữa
Trung
ương
và
địa
phương,
giữa
cấp
trên
và
cấp
dưới,
gắn
quyền
hạn
với
trách
nhiệm;
đồng
thời,
xây
dựng
cơ
chế
kiểm
soát
quyền
lực
chặt
chẽ
bằng
các
quy
định
của
Đảng,
pháp
luật
của
Nhà
nước,
bảo
đảm
dân
chủ,
công
khai,
minh
bạch,
đề
cao
trách
nhiệm
giải
trình
và
tăng
cường
kiểm
tra,
giám
sát
việc
thực
hiện.
Khuyến
khích
sự
năng
động,
sáng
tạo
và
phát
huy
tính
tích
cực,
chủ
động
của
các
cấp,
các
ngành,
các
địa
phương
trong
việc
xây
dựng,
kiện
toàn
tổ
chức,
tinh
gọn
bộ
máy,
tinh
giản
biên
chế”.
Để
thực
hiện
hiệu
quả
nội
dung
này
thì
trước
hết
phải
hoàn
thiện
các
chế
định
có
liên
quan
về
phân
cấp,
phân
quyền,
theo
hệ
thống
pháp
luật
về
phân
cấp,
phân
quyền
phải
đồng
bộ
đồng
thời
phải
phù
hợp
với
đáp
ứng
được
yêu
cầu
của
thực
tiễn./.
ThS.
Dương
Thị
Thân
Thương
Phân
hiệu
Đại
học
Luật
Hà
Nội
tại
Đắk
Lắk
Nguồn:
Tạp
chí
dân
chủ
pháp
luật
Từ
khóa:
quốc
hội,
xã
hội,
chủ
nghĩa,
thông
qua,
tổ
chức,
hiệu
lực,
thi
hành,
triển
khai,
thực
hiện,
sửa
đổi,
bổ
sung,
nội
dung,
cụ
thể,
rõ
ràng,
hoàn
thiện,
quy
định,
phân
cấp,
ủy
quyền,
cơ
quan,
nhà
nước,
tuy
nhiên
Những
tin
mới
hơn
Những
tin
cũ
hơn
Cơ
quan
chủ
quản:
THANH
TRA
THÀNH
PHỐ
TAM
KỲ-
TỈNH
QUẢNG
NAM
Địa
chỉ
cơ
quan:
70
Hùng
Vương -Thành
phố
Tam
Kỳ-
Tỉnh
Quảng
Nam
Điện
thoại: 0235.3810268
Chịu
trách
nhiệm
nội
dung:
Thanh
phố
Tam
Kỳ.
Ghi
rõ
nguồn
'http://thanhtratamky.gov.vn'
khi
bạn
phát
hành
lại
thông
tin
từ
Website
này.