Dân
chủ
-
phạm
trù
lịch
sử
và
phạm
trù
nhân
văn
Dân
chủ
là
hình
thức
tổ
chức
thiết
chế
chính
trị
của
xã
hội
dựa
trên
việc
thừa
nhận
nhân
dân
là
nguồn
gốc
của
quyền
lực,
thừa
nhận
nguyên
tắc
bình
đẳng,
tự
do
và
quyền
con
người.
Dân
chủ
cũng
được
vận
dụng
vào
tổ
chức
và
hoạt
động
của
những
tổ
chức
và
thiết
chế
chính
trị
nhất
định.
Là
hình
thức
tổ
chức
chính
trị
của
Nhà
nước,
dân
chủ
xuất
hiện
cùng
với
sự
xuất
hiện
của
Nhà
nước,
như
vậy
dân
chủ
là
một
phạm
trù
lịch
sử,
cũng
như
các
biểu
hiện
khác
của
hình
thái
ý
thức
xã
hội,
dân
chủ
do
tồn
tại
xã
hội
quyết
định,
do
phương
thức
sản
xuất
vật
chất
của
xã
hội
quyết
định;
và
do
đó,
trình
độ
của
phương
thức
sản
xuất
khác
nhau
tất
yếu
dẫn
đến
sự
khác
nhau
về
trình
độ
dân
chủ
(mức
độ
thực
hiện
dân
chủ
và
dân
chủ
hoá
trong
xã
hội).
Dân
chủ
biến
đổi
và
phát
triển
không
ngừng
cả
về
chất
và
lượng
trong
từng
giai
đoạn
phát
triển
của
lịch
sử
xã
hội
loài
người.
Tuy
nhiên,
dân
chủ
với
tính
cách
là
giá
trị
xã
hội,
là
thành
quả
giá
trị
nhân
văn
trước
hết
được
sinh
ra
từ
phương
thức
tổ
chức
hợp
tác
sản
xuất
vật
chất
và
cấu
kết
cộng
đồng
giữa
người
với
người
thì
đã
tồn
tại
ngay
từ
xã
hội
cộng
sản
nguyên
thuỷ.
Và
do
đó,
với
ý
nghĩa
này,
dân
chủ
sẽ
tồn
tại
và
phát
triển
cùng
với
sự
tồn
tại
và
phát
triển
của
con
người,
là
một
trong
những
phương
thức
tồn
tại
của
con
người
ngay
cả
khi
Nhà
nước
đã
biến
mất.
Pháp
luật-
sự
bảo
đảm
cho
dân
chủ
Khác
với
hình
thức
khác
của
thiết
chế
nhà
nước,
trong
thiết
chế
dân
chủ,
quyền
của
đa
số,
quyền
bình
đẳng
của
mọi
công
dân,
tính
tối
cao
của
pháp
luật
được
chính
thức
thừa
nhận;
đồng
thời,
các
cơ
quan
quyền
lực
phải
do
bầu
cử
mà
ra.
ở
đây,
pháp
luật
được
xem
là
nguyên
tắc
tối
thượng
của
việc
xây
dựng
thiết
chế,
quản
lý
và
điều
hành
xã
hội,
là
nền
tảng
của
trật
tự
xã
hội
và
là
chuẩn
mực
có
tính
chất
cưỡng
chế
nhằm
điểu
chỉnh
hành
vi của
các
cá
nhân
và
các
quan
hệ
trong
xã
hội.
Nếu
không
có
sự
đề
cao
nguyên
tắc
tối
thượng
của
pháp
luật
thì
sẽ
không
có
dân
chủ,
hay
đúng
hơn
là
dân
chủ
không
thể
được
nảy
sinh
và
tồn
tại
trên
nền
tảng
của
một
xã
hội
mà
ở
đó
các
quan
hệ
xã
hội
và
hành
vi
của
con
người
hầu
như
chỉ
được
điều
chỉnh
bởi
các
chuẩn
mực
đạo
đức,
tôn
giáo,
phong
tục,
tập
quán
thuần
tuý.
Các
chuẩn
mực
như
vậy
chưa
thể
tạo
ra
cơ
sở
pháp
lý
cho
sự
nảy
sinh
dân
chủ,
bởi
lẽ
những
cam
kết
và
chuẩn
mực
có
tính
chất
chính
trị,
đạo
đức,
tôn
giáo,
phong
tục
không
đủ
vững
chắc
và
bảo
đảm
cho
việc
thực
hiện
quyền
tự
do
lựa
chọn
người
đứng
đầu
quốc
gia,
chức
sắc
tôn
giáo
hay
quyền
tự
do
phế
truất,...
cũng
như
không
thể
giúp
cho
các
công
dân
có
quyền
tự
do
ứng
cử
vào
các
cơ
quan
của
Nhà
nước
và
chính
quyền
địa
phương
để
tham
gia
vào
việc
giám
sát,
thực
thi,
điều
hành
và
quản
lý
tất
cả
mọi
hoạt
động
của
xã
hội
và
của
Nhà
nước.
Những
điều
này
chỉ
có
thể
được
hiện
thực
hoá
từng
bước
tuỳ
theo
trình
độ
phát
triển
của
xã
hội
đó,
ở
trong
một
xã
hội
mà
những
cam
kết
về
sự
tự
do
của
công
dân
hay
cá
nhân
ấy
phải
được
ghi
nhận
và
quy
định
thành
luật,
nghĩa
là
trong
một
xã
hội
được
tổ
chức
chặt
chẽ
bởi
thiết
chế
luật
pháp.
Các
hình
thức
dân
chủ
Dân
chủ
trực
tiếp
và
dân
chủ
đại
diện
là
hai
hình
thức
biểu
hiện
của
cùng
thực
thể
dân
chủ,
cả
hai
hình
thức
này
đều
đóng
một
vai
trò
quan
trọng
bảo
đảm
cho
việc
thực
hiện
dân
chủ,
là
hai
hình
thức
không
thể
thiếu
được
của
việc
quản
lý,
điều
hành,
kiểm
soát
và
thực
thi
quyền
lực
của
nhân
dân.
Việc
vận
dụng
chúng
hoàn
toàn
phụ
thuộc
vào
tình
hình
cụ
thể.
Giữa
hai
hình
thức
này
có
mối
quan
hệ
biện
chứng
tác
động
qua
lại
và
chuyển
hoá
cho
nhau.
Để
thực
hiện
được
dân
chủ
đại
diện
thì
phải
cần
đến
dân
chủ
trực
tiếp,
chẳng
hạn
việc
bầu
cử
lựa
chọn
ra
các
đại
biểu
Quốc
hội
hay
đại
biểu
Hội
đồng
nhân
dân,
nghĩa
là
trước
khi
mỗi
công
dân
chuyển
giao
quyền
lực
của
mình
cho
người
đại
diện
ư
những
đại
biểu
dân
cử
và
cho
Nhà
nước
thì
họ
đã
phải
thực
hiện
dân
chủ
trực
tiếp
bằng
cách: thứ
nhất, tham
gia
vào
hội
nghị
hiệp
thương
nhân
dân
để
lựa
chọn
các
ứng
cử
viên
hoặc
thông
qua
tiếp
xúc
trực
tiếp
với
một
hay
một
số
ứng
cử
viên
mà
mình
sẽ
lựa
chọn; thứ
hai, thông
qua
việc
bỏ
phiếu
kín,
trên
nguyên
tắc
phổ
thông
đầu
phiếu,
công
bằng,
công
khai
và
minh
bạch,
để
lựa
chọn
cho
mình
một
đại
biểu
ưu
tú
dựa
trên
ý
chí
quyết
định
của
chính
mình.
Ngược
lại,
đến
lượt
mình,
các
đại
biểu
Quốc
hội
(nghị
sĩ)
khi
thực
hiện
quyền
lực
của
công
dân
(cử
tri)
giao
cho
thì
lại
cần
phải
dựa
trên
phương
thức
dân
chủ
trực
tiếp,
nghĩa
là
tham
gia
một
cách
trực
tiếp
và
thể
hiện
ý
chí
của
mình
trong
việc
lập
pháp
cũng
như
các
công
việc
quan
trọng
khác
của
Nhà
nước.
Chế
độ
xã
hội
của
nước
ta
dựa
trên
nền
dân
chủ
đại
diện,
nhưng
không
có
nghĩa
đó
là
hình
thức
dân
chủ
duy
nhất,
bởi
vì
bản
thân
dân
chủ
đã
luôn
luôn
bao
chứa
trong
nó
cả
hai
hình
thái
tồn
tại
và
chỉ
có
như
vậy
thì
dân
chủ
mới
thực
hiện
theo
đúng
nghĩa
đầy
đủ
của
nó,
mà
cần
phải
thấy
rằng
chính
hình
thức
dân
chủ
trực
tiếp
là
nội
dung,
là
cái
quyết
định
đối
với
nền
dân
chủ
đại
diện
này.
Chỉ
khi
nào
mức
độ
dân
chủ
trực
tiếp
được
hiện
thực
hoá
một
cách
đầy
đủ,
hiệu
quả
và
sâu
rộng
thì
đó
chính
là
tiền
đề
quan
trọng
cho
việc
thực
hiện
tốt
hình
thức
dân
chủ
đại diện
và
nền
dân
chủ
đại
diện.
Chẳng
hạn,
khi
quyền
làm
chủ
của
nhân
dân
đã
được
uỷ
thác
cho
những
đại
diện
của
mình
ưđại
biểu
Quốc
hội
thì
đòi
hỏi
những
đại
biểu
này
cần
thường
xuyên
lắng
nghe
và
phản
ánh
về
những
vấn
đề
thiết
yếu
hàng
ngày
của
người
dân.
Những
cuộc
tiếp
xúc
trực
tiếp
với
các
cử
tri
và
xử
lý
kiến
nghị
của
cử
tri
cũng
chính
là
một
hình
thức
của
dân
chủ
trực
tiếp
giúp
cho
việc
thực
hiện
quyền
làm
chủ
của
nhân
dân
ở
cấp
đại
diện
(Quốc
hội)
được
bảo đảm
hiệu
quả
hơn,
phản
ánh
đúng
và
sâu
sát
với
những
bức
xúc,
trăn
trở
của
nhân
dân.
Hơn
nữa,
quyền
lực
của
nhân
dân
do
được
thực
hiện
thông
qua
người
đại
diện
của
mình
(đại
biểu
Quốc
hội)
cho
nên
đôi
khi
nó “bị
khúc
xạ” qua
lăng
kính
trình
độ
và
trách
nhiệm
của
những
người
đại
biểu.
Do
vậy,
việc
thực
hiện
dân
chủ
đại
diện
không
thể
tách
rời
dân
chủ
trực
tiếp
còn
ở
chỗ
dân
chủ
trực
tiếp
chính
là
thước
đo
và
là
tiêu
chuẩn
để
kiểm
nghiệm,
giám
sát
và
đánh
giá
dân
chủ
gián
tiếp.
Chẳng
hạn,
trước
khi
một
dự
luật
được
Quốc
hội
thông
qua
hay
một
chính
sách,
nghị
định
nào
của
Chính
phủ
được
ban
hành
thì
điều
hết
sức
quan
trọng
là
nó
cần
phải
được
gửi
cho
tất
cả
mọi
công
dân
để
lấy
ý
kiến
của
nhân
dân,
hoặc
phải
tiến
hành
trưng
cầu
dân
ý
ư
đây
chính
là
một
hình
thức
của
dân
chủ
trực
tiếp.
Hình
thức
này
cần
phải
được
coi
là
nền
tảng
để
thực
hiện
dân
chủ
trực
tiếp
cũng
như
là
cơ
chế
hết
sức
quan
trọng
để
thực
hiện
quyền
dân
chủ
của
mọi
công
dân.
Nghĩa
là,
trưng
cầu
dân
ý
cần
phải
trở
thành
nguyên
tắc
Hiến
định
đối
với
hoạt
động
thực
thi
và
giám
sát
quyền
lực
của
nhân
dân.
Quy
chế
dân
chủ
ở
cơ
sở
là
hết
sức
quan
trọng
và
cần
thiết
bảo
đảm
cho
việc
thực
hiện
quyền
dân
chủ
của
nhân
dân
thông
qua
hình
thức
dân
chủ
trực
tiếp
nhưng
như
thế
vẫn
chưa
đủ,
cần
phải
xây
dựng
một
dự
luật
về
trưng
cầu
dân
ý.
Chỉ
có
như
vậy
mới
giúp
cho
việc
lập
pháp
và
việc
hoạch
định
chính
sách
tránh
được
những
bất
cập,
thiếu
tính
khả
thi
và
chưa
thực
sự
hiệu
quả.
Nguyên
tắc
nền
tảng
của
việc
thực
thi
và
bảo
đảm
dân
chủ
đó
là “dân
biết,
dân
bàn,
dân
làm,
dân
kiểm
tra”. Từ
mục
đích
như
vậy,
cần
xây
dựng
và
hoàn
thiện
hệ
thống
các
cơ
chế
cần
thiết
cho
việc
thực
hiện
mục
tiêu
này.
Tổng
thể
các
biện
pháp
này
tạo
ra
một
cơ
chế
hữu
hiệu
và
duy
nhất
cho
việc
bảo
đảm
và
thực
thi
quyền
dân
chủ
rộng
rãi
trong
xã
hội.
Chẳng
hạn,
nếu
dân
không
được
biết,
không
được
tham
gia
vào
quá
trình
hoạch
định
chính
sách,
pháp
luật,
vào
công
việc
của
Nhà
nước
nghĩa
là
dân
đã
không
được
bảo
đảm
các
quyền
chính
trị
của
mình.
Dân
không “biết”,
dân
sẽ
không
thể
“bàn” được,
và
do
đó
sẽ
không “làm” được
và
không
thể
“kiểm
tra” được
quá
trình
hay
công
việc
đó.
Quyền
dân
chủ
Quyền
dân
chủ chính
là
những
yêu
sách,
nhu
cầu
nội
tại
của
mỗi
cá
nhân,
với
tư
cách
là
công
dân
đối
với
các
nguyên
tắc,
các
chuẩn
mực
pháp
lý
dân
chủ
trong
một
thiết
chế
xã
hội
dân
chủ
nhằm
bảo
đảm
sự
tham
gia
một
cách
tự
do,
bình
đẳng
và
đầy
đủ
vào
các
công
việc
của
Nhà
nước
và
toàn
bộ
đời
sống
xã
hội
của
con
người.
Quyền
dân
chủ
thực
chất
chính
là
yêu
sách
về
bình
đẳng
chính
trị
và
xã
hội
của
mỗi
cá
nhân
trong
mối
quan
hệ
với
Nhà
nước,
bảo
đảm
cho
cá
nhân
khả
năng
hành
động
theo
ý
mình,
cho
sự
tự
quyết
định
và
làm
chủ
ý
chí
của
mình mà
không
có
hại
cho
người
khác,
và
do
đó
cho
khả
năng
giải
phóng
toàn
diện
những
năng
lực
bản
chất
người
của
mỗi
cá
nhân.
Ph.Ăngghen khẳng
định: “từ
sự
bình
đẳng
của
mọi
người
với
tư
cách
là
những
con
người,
rút
ra
cái
quyền
có
một
giá
trị
ngang
nhau
về
chính
trị
và
xã
hội
cho
tất
cả
mọi
người,
hay
ít
ra
là
cho
công
dân
trong
một
nước,
hay
cho
mọi
thành
viên
trong
xã
hội”1.
Như
vậy,
quyền
dân
chủ
trước
hết
là
quyền
con
người;
hơn
nữa,
nó
nhấn
mạnh
đặc
biệt
đến
các
quyền
về
chính
trị
như
là
khả
năng
và
điều
kiện
tiên
quyết
để
thực
hiện
đầy
đủ
các
quyền
con
người
cơ
bản
khác.
Bởi
vì,
sự
giải
phóng
về
chính
trị
là
điều
kiện
tiên
quyết
đối
với
mọi
sự
giải
phóng
khác
của
con
người,
bình
đẳng
về
chính trị
là
tiền
đề
của
mọi
sự
bình
đẳng.
Hay
nói
cách
khác,
các
quyền
về
chính
trị
(tự
do
bầu
cử,
ứng
cử,
tự
do
ngôn
luận,
tự
do
lập
hội,
hội
họp,
tự
do
báo
chí...), một
mặt, là
tiền
đề
cho
việc
hiện
thực
hoá
các
quyền
khác, mặt
khác, là
sự
phản
ánh
về
mức
độ
giải
phóng “năng
lực
bản
chất
người” của
mỗi
cá
nhân.
Nó
chính
là
nội
dung
cốt
lõi
của
quyền
con
người,
nó
khẳng
định
con
người
là “một
nhân
tính
tự
do”, “một
nhân
cách
ư
văn
hoá” và “chủ
thể
sáng
tạo
của
lịch
sử
và
của
giới
tự
nhiên”.
Chính
vì
vậy,
các
nhà
kinh
điển
mácưxít
đã
đặc
biệt
nhấn
mạnh
đến
các
quyền
về
chính
trị
như
là
bản
chất
của
quyền
dân
chủ: “Vì
thế,
yêu
sách
khẩn
cấp
của
công
nhân
và
nhiệm
vụ
trước
tiên
để
giai
cấp
công
nhân
có
ảnh
hưởng
đến
công
việc
của
nhà
nước
là
phải
giành
được
tự
do
chính
trị,
nghĩa
là
tất
cả
mọi
công
dân đềuđược
pháp
luật
đảm
bảo
cho
họ
trực
tiếp
tham
gia
việc
quản
lý
nhà
nước,
tất
cả
mọi
công
dân
đều
được
quyền
tự
do
hội
họp,
bàn
bạc
công
việc
của
mình,
kinh
qua
các
hội
của
mình
và
báo
chí
mà
ảnh
hưởng
đến
công
việc
của
nhà
nước.
Giành
lấy
tự
do
chính
trị
trở
thành
“một
việc
làm
khẩn
cấp
đối
với
công
nhân”
bởi
vì
không
có
tự
do
chính
trị,
không
có
và
không
thể
có
ảnh
hưởng
gì
đến
công
việc
của
nhà
nước
và
như
vậy
thì
tất
nhiên
họ
vẫn
là
một
giai
cấp
không
có
quyền,
bị
lăng
nhục
và
không
được
bày
tỏ
ý
kiến
của
mình”2.
Quyền
dân
chủ
còn
là
một
giá
trị
xã
hội
của
con
người
đã
được
thể
chế
hoá
thành
hệ
thống
pháp
luật
của
một
nhà
nước
nhất
định,
gắn
với
một
hệ
thống
chính
trị
nhất
định
dựa
trên
một
trình
độ
phát
triển
nhất
định
về
kinh
tế
và
văn
hoá.
Vì
vậy,
quyền
dân
chủ
một
mặt
là
sự
phản
ánh
bước
tiến
của
con
người
về
tự
do,
bình
đẳng
và
sự
giải
phóng
toàn
diện
năng
lực
bản
chất
người
của
mỗi
cá
nhân,
mặt
khác
phản
ánh
sự
phát
triển
của
luật
pháp,
trình
độ
kinh
tế,
văn
hoá
và
tiến
bộ
xã
hội
của
quốc
gia
đó.
Do
đó,
có
thể
nói:
quyền
dân
chủ
chính
là
quyền
và
tự
do
cơ
bản
của
con
người
trong
một
chế
độ
xã
hội
dân
chủ
hay
là
yêu
sách,
nhu
cầu
chính
đáng
của
con
người
về
sự
bình
đẳng
chính
trị
và
bình
đẳng
xã
hội
với
tính
cách
là
môi
trường
và
điều
kiện
cho
sự
tồn
tại,
phát
triển
và
hoàn
thiện
nhân
cách
ư
văn
hoá
và
nhân
tính ư
tự
do
của
mỗi
cá
nhân.
II. Thực
hiện
dân
chủ
và
quyền
dân
chủ
ở
nước
ta
trong
thời
kỳ
đổi
mới
1.
Một
số
thành
tựu
đạt
được
Kể
từ
khi
công
cuộc
đổi
mới
toàn
diện
bắt
đầu
cho
đến
nay,
Việt
Nam
đã
đạt
được
những
thành
tựu
hết
sức
to
lớn
trên
mọi
phương
diện.
Trong
đó,
quá
trình
dân
chủ
hoá,
tôn
trọng
và
bảo
đảm
quyền
dân
chủ
ngày
càng
được
mở
rộng
và
phát
triển
không
ngừng,
nhất
là
trong
vòng
hơn
10
năm
trở
lại
đây.
Dân
chủ
đại
diện
đã
được
thực
hiện
và
bảo
đảm
ngày
càng
có
hiệu
quả.
Ví
dụ
từ
các
kỳ
họp
Quốc
hội.
Việc
giải
quyết
công
việc
theo
đúng
hẹn,
và
đặc
biệt
là
niêm
yết
công
khai
về
các
khoản
thu
chi,
lệ
phí,
ngân
sách...
đều
được
thực
hiện
trong
một
quy
trình
thống
nhất
một
đầu
mối
đó
là “một
cửa”,
tức
là
cầu
nối
giữa
người
dân
và
chính
quyền/các
cấp
chính
quyền,
mỗi
khi
người
dân
muốn
phản
ánh
về
vấn
đề
gì
thì
chỉ
cần
gặp,
trình
bày
với
bộ
phận
tiếp
dân,
cũng
như
nhận
kết
quả
trả
lời
chỉ
cần
thông
qua
một
bộ
phận
duy
nhất, “cầu
nối” duy
nhất.
Điều
này
thực
hiện
quy
chế
dân
chủ
ở
cơ
sở
đã
đạt
được
những
thành
tựu
đáng
kể,
góp
phần
quan
trọng
vào
việc
giữ
vững
ổn
định
chính
trị,
phát
triển
kinh
tế
ư
xã
hội
và
bảo
Văn hoá
pháp luật,văn hoá chính
trị
và
văn
hoá
nói
chung
của
người
cầm
quyền
và
toàn
xã
hội
còn
hạn
chế,
chưa “cắm
rễ” và“ăn
sâu” vào
trong
suy
nghĩ,
hành
động
của
họ
không
những
khắc
phục
được
tình
trạng
quan
liêu,
cửa
quyền,
nhũng
nhiễu
nhân
dân
mà
còn
bảo
đảm
được
việc
thực
hiện
quyền
dân
chủ
của
nhân
dân.
đảm
quyền
và
lợi
ích
hợp
pháp
của
các
công
dân.
Chẳng
hạn,
mô
hình
cơ
chế “một
cửa” trong
quản
lý
nhà
nước
tại
một
số
địa
phương
trong
cả
nước
đã
đem
lại
những
kết
quả
đáng
khích
lệ.
Mô
hình
này
cho
phép
mọi
công
dân
đều
có
cơ
hội
thực
hiện
quyền
dân
chủ
của
mình.
Mô
hình
quản
lý
hành
chính
của
cấp
chính
quyền
địa
phương
được
xây
dựng
thí
điểm
này
được
dựa
trên
nguyên
tắc
căn
bản
và
nền
tảng
đó
chính
là “dân
biết,
dân
bàn,
dân
làm,
dân
kiểm
tra”:
toàn
bộ
bộ
máy
chính
quyền
ở
địa
phương
đó
đã
hoạt
động
hiệu
quả,
đáp
ứng
và
giải
quyết
tương
đối
thoả
đáng
nguyện
vọng
và
những
vấn
đề
của
người
dân.
Chẳng
hạn,
giải
quyết
những
vấn
đề
từ
nhỏ
đến
lớn,
từ
đơn
giản
đến
phức
tạp,
công
việc
riêng
của
từng
người
dân
hay
công
việc
chung
của
cộng
đồng,
khiếu
nại,
tố
cáo
của
công
dân,
hồ
sơ
đất
đai,
giải
quyết
công
văn
đi,
đến
đúng
thời
gian,
Quyền
dân
chủ
của
nhân
dân
thể
hiện
không
chỉ
thông
qua
việc
thực
hiện
tốt
quyền
bầu
cử,
ứng
cử
mà
còn
là
sự
tôn
trọng
và
thực
hiện
tốt
quyền
bãi
miễn
của
nhân
dân.
Nhất
là
trong
tình
hình
hiện
nay,
tham
nhũng,
thoái
hoá
biến
chất
của
một
bộ
phận
không
nhỏ
cán
bộ,
công
chức
trong
hệ
thống
chính
trị,
hệ
thống
hành
chính
nhà
nước
đang
được
xem
là “quốc
nạn”.
Quyền
bãi
miễn là
một
quyền
của
cử
tri,
của
công
dân
nhằm
kiểm
tra
và
giám
sát
việc
thực
thi
quyền
lực
nhà
nước,
là “thực
hiện
sự
phục
tùng
thực
sự
của
những
người
được
bầu
đối
với
nhân
dân”,
là
nguyên
tắc
nhằm
thực
hiện
triệt
để
chế
độ
dân
chủ,
bảo
đảm
quyền
lực
nhà
nước
thực
sự
thuộc
về
nhân
dân.
Lênin
nhấn
mạnh “mọi
cơ
quan
được
bầu
ra...
đều
có
thể
coi
là
có
tính
chất
dân
chủ
chân
chính
và
đại
biểu
thực
sự
cho
ý
chí của
nhân
dân,
khi
nào
quyền
bãi
miễn của
cử
tri
đối
với
những
người
trúng
cử được
thừa
nhận và
được
áp
dụng...
từ
chối
không
áp
dụng
bãi
miễn,
trì
hoãn
thi
hành
quyền
đó,
hạn
chế
nó,
thì
như
thế
tức
là
phản
lại
dân
chủ
và
hoàn
toàn
từ
bỏ
nguyên
tắc
chủ
yếu
và
nhiệm
vụ
của
cuộc
cách
mạng
XHCN
đã
bắt
đầu
ở
nước
Nga”3
và
rằng “không
có
kiểm
kê,
kiểm
soát
thì
không
có
chủ
nghĩa
xã
hội”.
Chính vì
vậy,
trong
những
năm
qua,
việc
triển
khai
mạnh
mẽ
Quy
chế
dân
chủ
ở
cơ
sở
theo
phương
châm “dân
biết,
dân
bàn,
dân
làm,
dân
kiểm
tra” kết
hợp
với
việc
xây
dựng
và
chỉnh
đốn
Đảng
đã
tạo
ra
những
điều
kiện
thuận
lợi
để
nhân
dân
tham
gia
vào
quá
trình
giám
sát
thực
thi
quyền
lực
nhà
nước
của
toàn
bộ
hệ
thống
chính
trị,
hệ
thống
hành
chính
nhà
nước.
Nhờ
có
cơ
chế
dân
chủ
như
vậy
mà
nhân
dân
đã
tích
cực
tham
gia
vào
cuộc
chiến
chống
tệ
tham
nhũng,
quan
liêu
và
thoái
hoá,
biến
chất
trong
đội
ngũ
cán
bộ
của
Đảng
và
Nhà
nước
ở
tất
cả
các
cấp.
2. Một
số
vấn
đề
còn
tồn
tại
Bên
cạnh
những
thành
tựu,
cũng
còn
nhiều
hạn
chế
và
bất
cập
trong
việc
thực
hiện
dân
chủ
và
quyền
dân
chủ,
đã
và
đang
làm
cản
trở
tiến
trình
phát
triển
bền
vững
của
đất
nước,
tiến
bộ
xã
hội
và
việc
tôn
trọng,
hiện
thực
hoá
đầy
đủ
các
quyền
con
người.
a) Dân
chủ
và
quyền
dân
chủ
có
nơi, có
lúc
còn
bị
vi
phạm
nghiêm
trọng
và
đáng
báo
động,
đặc
biệt
ở
cấp
cơ
sở.
Nhiều
vấn
đề “quốc
nạn” xảy
ra
và
bùng
phát
từ
cơ
sở
như
nạn
tham
ô,
tham
nhũng,
quan
liêu,
nhũng
nhiễu,
ức
hiếp
nhân
dân
diễn
ra
tràn
lan,
kéo
dài
và
gây
hậu
quả
đáng
lo
ngại.
Hơn
nữa,
thước
đo
dân
chủ
và
quyền
dân
chủ
ư
theo
đúng
ý
nghĩa
đích
thực
của
nó,
không
phải
cái
gì
khác
hơn
là
mức
độ
dân
chủ
hoá
và
quyền
dân
chủ
của
nhân
dân
ở
cấp
cơ
sở
và
ngay
từ
cấp
cơ
sở
được
tôn
trọng
và
bảo
đảm,
nơi
đóng
vai
trò
quan
trọng
nhất
của
hệ
thống
chính
trị,
hệ
thống
hành
chính
nhà
nước
trong
việc
thực
hành
dân
chủ
và
bảo
đảm quyền
dân
chủ
của
nhân
dân.
Đúng
như
Thủ
tướng
Phan
Văn
Khải
khẳng
định: “Đội
ngũ
cán
bộ
ở
cơ
sở
trong
một
thời
gian
dài
không
được
quan
tâm
xây
dựng,
củng
cố đúng
với
tầm
quan
trọng
của
nó
trong
việc đưa
luật
pháp,
chính
sách
đi
vào
cuộc
sống,
phát
huy
quyền
làm
chủ
và
năng
lực
tự
quản
của
dân”4.
b)
Sự
phát
triển
kinh
tế
nói
riêng
và
sự
phát
triển
của
lực
lượng
sản
xuất
nói
chung
của
nước
ta
còn
hạn
chế
và
chưa
tạo
ra
tiền
đề
vật
chất
đầy
đủ
cho
việc
thực
hành
dân
chủ
và
bảo
đảm
quyền
dân
chủ
của
nhân
dân.
Dân
chủ
và
quyền
dân
chủ
không
chỉ
phản
ánh
bằng
việc
tham
gia
hiệu
quả
và
thực
sự
vào
đời
sống
chính
trị,
vào
công
việc
của
Nhà
nước,
mà
còn
là
sự
thể
hiện
trong
hoạt
động
kinh
doanh,
trong
đời
sống
kinh
tế.
Tuy
nhiên,
trên
thực
tế
cho
đến
nay,
quyền
dân
chủ
trong
kinh
doanh
của
các
thành
phần
và
chủ
thể
kinh
tế
vẫn
chưa
được
bảo
đảm
đầy
đủ
vì
vẫn
chưa
có
luật
cạnh
tranh
và
khung
pháp
lý
cần
thiết
để
thiết
lập
môi
trường
cạnh
tranh
lành
mạnh,
bình đẳng.
Chính
phủ
còn
thiếu
biện
pháp
cụ
thể
thực
hiện
chủ
trương
hạn
chế
và
kiểm
soát
độc
quyền
kinh
doanh,
bất
bình
đẳng
trong
kinh
doanh,
không
để
cho
độc
quyền
nhà
nước
trong
một
số
lĩnh
vực
trọng
yếu
biến
thành
độc
quyền
doanh
nghiệp;
chưa
ngăn
chặn
được
tình
trạng
giá
một
số
sản
phẩm
và
dịch
vụ
độc
quyền
quá
cao,
làm
tăng
chi
phí
và
ảnh
hưởng
xấu
đến
năng
lực
cạnh
tranh
của
các
doanh
nghiệp
khác
và
toàn
bộ
nền
kinh
tế,
làm
giảm
sức
hấp
dẫn
của
môi
trường
đầu
tư5.
c) Trình độ
nhận
thức
về
dân
chủ
cũng
như
việc
tôn
trọng
và
thực
thi
quyền
dân
chủ
của
một
bộ
phận
cán
bộ
lãnh
đạo
và
chủ
chốt
còn
nhiều
hạn
chế
và
chưa
đầy
đủ.
Đồng
thời,
văn
hoá
pháp
luật,
văn
hoá
chính
trị
và
văn
hoá
nói
chung
của
người
cầm
quyền
và
toàn
xã
hội
còn
hạn
chế,
chưa “cắm
rễ” và “ăn
sâu” vào
trong
suy
nghĩ,
hành
động
của
họ.
Điều
này
làm
cản
trở
không
nhỏ
cho
việc
tôn
trọng
và
bảo
đảm
hiệu
quả
dân
chủ
và
quyền
dân
chủ
của
nhân
dân.
Việc
thực
hiện
dân
chủ
và
quyền
dân
chủ
ở
nước
ta
vẫn
còn
những
hạn
chế
và
chưa
hiệu
quả
cả
về
thiết
chế
cũng
như
tổ
chức
thực
hiện.
Chẳng
hạn,
chỉ
Quy
chế
và
các
Nghị
định
của
Chính
phủ
về
việc
xây
dựng,
triển
khai
và
thực
hiện
dân
chủ
ở
cơ
sở
là
chưa
đầy
đủ
và
chưa
mang
tính
pháp
lý
cao.
Vì
vậy,
m
ột
mặt,
cần
phải
thể
chế
hoá
những
nguyên
tắc
căn
bản
này
vào
trong
hệ
thống
pháp
luật
quốc
gia,
mặt
khác
cần
sớm
xây
dựng
và
thông
qua
Luật
trưng
cầu
ý
dân.
d)
Không
chỉ
có
việc
thực
hiện
dân
chủ
trực
tiếp
còn
nhiều
hạn
chế
mà
ngay
cả
dân
chủ
đại
diện
cũng
còn
nhiều
bất
cập
và
chưa
đáp
ứng
được
nguyện
vọng
của
nhân
dân.
Chẳng
hạn,
nhiều
yêu
cầu
chính
đáng
của
nhân
dân
do
đại
biểu
Quốc
hội,
các
cơ
quan
của
Quốc
hội
chuyển
đến
các
cơ
quan
có
thẩm
quyền
chưa
được
giải
quyết;
tình
trạng
để
vụ
việc
tồn
đọng
vẫn
còn
kéo
dài;
các
Đoàn
đại
biểu
Quốc
hội
vẫn
chỉ
mới
tổ
chức
tiếp
dân
và
chuyển
đơn
thư
là
chính,
chưa
đủ
điều
kiện
thực
hiện
đầy
đủ
quyền
giám
sát
việc
giải
quyết
đơn
thư;
các
cơ
quan
của
Quốc
hội
vẫn
còn
gặp
khó
khăn
và
chưa
đạt
hiệu
quả
cao
về
hoạt
động
giám
sát
việc
giải
quyết
kiến
nghị
của
cử
tri
và
đơn
thư
khiếu
tố
trong
khi
kiến
nghị
và
đơn
thư
khiếu
nại,
tố
cáo
của
công
dân
gửi
đến
Quốc
hội
ngày
càng
tăng
và
ngày
càng
gay
gắt6.
Trong
việc
bầu
cử
đại
biểu
Quốc
hội,
có
nơi,
có
lúc
chưa
chú
trọng
đúng
mức
đến
tiêu
chuẩn
đại
biểu,
do
đó,
còn
có
đại
biểu
với
năng
lực
hạn
chế,
chưa
bảo
đảm
đủ
điều
kiện
để
thực
hiện
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
người
đại
biểu,
phát
huy
vai
trò
của
người
đại
diện
cho
nhân
dân
ở
đơn
vị
bầu
cử
ra
mình
và
đại
diện
cho
nhân
dân
cả
nước,
ít
đóng
góp
ý
kiến
vào
việc
xem
xét,
thông
qua
các
dự
án
luật,
quyết định
các
vấn
đề
quan
trọng
của
đất
nước
và
những
nội
dung
khác
được
Quốc
hội
bàn
bạc,
xem
xét.
Cá
biệt,
một
số
ít
đại
biểu
không
giữ
trọn
đạo
đức,
phẩm
chất,
bị
Quốc
hội
bãi
nhiệm,
gây
ảnh
hưởng
không
nhỏ
đến
uy
tín
của
người
đại
biểu
nhân
dân.
Còn
thiếu
quá
nhiều
đại
biểu
Quốc
hội
hoạt
động chuyên
trách
ở
các
cơ
quan
của
Quốc
hội
và
ở
cả
các
Đoàn
đại
biểu
Quốc
hội.
Các
đại
biểu
hoạt
động
theo
chế
độ
chuyên
trách
cũng
gặp
nhiều
khó
khăn,
nhiều
đại
biểu
chưa
dành
được
ít
nhất
1/3
thời
gian
cho
hoạt
động
của
Quốc
hội
như
luật
định.
3.
Phương
hướng
a) Tăng
cường
và
mở
rộng
quyền
dân
chủ
trong
lĩnh
vực
kinh
tế,
chẳng
hạn
cần
phân
biệt
quyền
của
chủ
sở
hữu
và
quyền
kinh
doanh
của
doanh
nghiệp;
giao
cho
hội
đồng
quản
trị
doanh
nghiệp
quyền
đại
diện
trực
tiếp
chủ
sở
hữu
gắn
với
quyền
tự
chủ
trong
kinh
doanh;
quy
định
rõ
quyền
hạn
và
trách
nhiệm
của
các
cơ
quan
quản
lý
nhà
nước
đối
với
doanh
nghiệp;
tiếp
tục
đổi
mới
cơ
chế,
chính
sách
đối
với
doanh
nghiệp
nhà
nước
để
tạo
động
lực
phát
triển
và
nâng
cao
hiệu
quả
theo
hướng:
xoá
bỏ
hoàn
toàn
bao
cấp;
doanh
nghiệp
cạnh
tranh
bình
đẳng
trên
thị
trường,
tự
chịu
trách
nhiệm
về
sản
xuất,
kinh
doanh,
nộp
đủ
thuế
và
có
lãi;
thực
hiện
tốt
quy
chế
dân
chủ
trong
doanh
nghiệp.
b)
Dân
chủ
với
tính
cách
thuộc
hình
thái
thượng
tầng
kiến
trúc,
hiển
nhiên
do
cơ
sở
hạ
tầng
quyết
định,
mà
trước
hết
phụ
thuộc
vào
trình
độ
phát
triển
của
lực
lượng
sản
xuất
ư
vào
sự
phát
triển
kinh
tế
của
xã
hội.
Vì
vậy,
cần
phải
thúc
đẩy
sự
phát
triển
mạnh
mẽ
nền
kinh
tế
thị
trường
để
tạo
tiền
đề
vật
chất
cho
việc
thiết
lập
cơ
chế
dân
chủ
và
bảo
đảm
rộng
rãi
quyền
dân
chủ
cho
tất
cả
mọi
người.
Trong
chiến
lược
phát
triển
kinh
tế,
cần
nêu
cao
nguyên
tắc
dân
chủ
hoá
về
kinh
tế:
coi
các
thành
phần
kinh
tế
đều
là
bình
đẳng,
cho
phép
tự
do
kinh
doanh
và
sản
xuất,
tự
do
cạnh
tranh
trong
khuôn
khổ
của
pháp
luật,
đẩy
mạnh
cơ
chế
dân
chủ
ở
cơ
sở,
dân
chủ
trong
các
doanh
nghiệp,
không
được
phép
thiên
vị
hay
tạo
cơ
chế
độc
quyền,
bất
bình
đẳng
trong
kinh
doanh
đối
với
các
doanh
nghiệp
nhà
nước...
c) Tăng
cường
và
mở
rộng
hình
thức
dân
chủ
trực
tiếp,
đặc
biệt
và
trước
hết
là
ở
cơ
sởư
đầu
mối
xung
yếu
và
thước
đo
quan
trọng
nhất
để
đánh
giá
mức
độ
dân
chủ
hoá
và
quyền
dân
chủ
của
nhân
dân.
Kết
hợp
thật
tốt
và
nâng
cao
chất
lượng
hoạt
động
của
dân
chủ
đại
diện
và
dân
chủ
trực
tiếp.
Các
hình
thức
dân
chủ
đại
diện
là
kết
quả
của
quá
trình
hoàn
thiện
quy
chế
dân
chủ,
nhưng
nó
không
loại
trừ
việc
thực
hiện
dân
chủ
trực
tiếp.
Làm
tốt
dân
chủ
trực
tiếp
sẽ
làm
cho
dân
chủ
đại
diện
được
thực
hiện
tốt
hơn
và
ngược
lại.
Thực
hiện
quy
chế
dân
chủ
ở
cơ
sở
càng
phải
coi
trọng
và
nâng
cao
vai
trò
lãnh
đạo
của
Đảng,
sự
quản
lý
của
Nhà
nước.
Các
đoàn
thể
nhân
dân
phải
chủ
động,
gương
mẫu
trong
việc
vận
động
nhân
dân
thực
hiện
các
quy
chế,
quy
ước,
hương
ước.
d) Dân
chủ
với
tính
là
giá
trị
xã
hội,
nó
phụ thuộc
rất
nhiều
vào
trình
độ
giải
phóng
của
con
người
về
mặt
nhận
thức,
về
tri
thức,
về
nhân
cáchưtức
là
về
mức
độ
xã
hội
hoá
nhân
cách “chủ
thểư
tự
do” của
mỗi
cá
nhân
và
của
cả
cộng
đồng.
Chính
vì
vậy,
cần
nâng
cao
trình
độ
nhận
thức
và
xây
dựng
văn
hoá
chính
trị,
văn
hoá
pháp
luật
và
văn
hoá
về
quyền
con
người
cho
những
người
thực
thi
quyền
lực
nhà
nước
(đội
ngũ
cán
bộ
lãnh
đạo,
chủ
chốt
trong
hệ
thống
chính
trị)
và
các
tầng
lớp
nhân
dân
nhằm
tạo
tiền
đề
tốt hơn
cho
việc
thực
hành
và
bảo
đảm
dân
chủ
và
quyền
dân
chủ.
e) Tiếp
tục tăng
cường
và
phát
huy
quy
chế
dân
chủ
ở
cơ
sở
một
cách
rộng
khắp
ở
tất
cả
các
ngành,
các
cấp,
các
đơn
vị
hành
chính,
các
viện
nghiên
cứu,
trường
đại
học...
bằng
việc
tuyên
truyền
và
giáo
dục
thường
xuyên
và
mạnh
mẽ
về
Quy
chế
và
những
thiết
chế
dân
chủ
này
cho
cán
bộ,
đảng
viên
và
mọi
tầng
lớp
nhân
dân,
đặc
biệt
là
cán
bộ
chủ
chốt
ở
cơ
sở
và
cán
bộ
chuyên
trách
của
chính
quyền
các
cấpưlà “cầu
nối” giữa
nhân
dân
và
chính
quyền.
Cần
tăng
cường
và
đẩy
mạnh
hơn
nữa
việc
xây
dựng,
triển
khai
và
thực
hiện
dân
chủ
ở
doanh
nghiệp,
dân
chủ
ở
cơ
quan
(trường
học,
viện
nghiên
cứu,
cơ
quan
hành
chính
sự
nghiệp...)
và
dân
chủ
ở
xã.
f)Củng cố
và
xây
dựng
hệ
thống
chính
trị ở
cơ
sở
vững
mạnh.
Đẩy
mạnh
tăng
cường
cải
cách
hành
chính
toàn
diện
trên
phạm
vi
cả
nước,
nhất
là
ở
cấp
cơ
sở.
Gắn
việc
thực
hiện
Quy
chế
dân
chủ
ở
cơ
sở
với
cuộc
vận
động
xây
dựng,
chỉnh
đốn
Đảng
với
cải
cách
hành
chính,
với
nhiệm
vụ
phát
triển
kinh
tếư
văn
hoáưxã
hội,
bảo
đảm
an
ninh,
ổn
định
chính
trịưxã
hội.
Củng
cố,
kiện
toàn
tổ
chức
hoạt
động
của
cộng
đồng
dân
cư
thôn
bản,
khu
phố,
đơn
vị
cơ
sở,...
nơi
trực
tiếp
triển
khai
thực
hiện,
kiện
toàn
tổ
chức
hoạt
động
của
cộng
đồng
dân
cư
thôn
bản,
khu
phố,
nơi
trực
tiếp
triển
khai
thực
hiện
quy
chế
dân
chủ,
hương
ước,
quy
ước
của
các
tầng
lớp
nhân
dân.
g)
Tăng
cường
vai
trò
và
mở
rộng
phạm
vi
hoạt
động
của
các
tổ
chức
xã
hội,
các
tổ
chức
phi
Nhà
nước
(hội
thanh
niên,
hội
phụ
nữ,
hội
người
già,
hội
người
tàn
tật,
công
đoàn,...),
các
thiết
chế
cộng
đồng
làng
xã,
khu
phố,
cơ
quan,
xí
nghiệp,
công
ty,...
được
xây
dựng
và
hoạt
động
theo
hình
thức
tự
quản.
Tăng
cường
giáo
dục
về
pháp
luật,
về
quy
chế
dân
chủ
ở
cơ
sở...
Đào
tạo
cán
bộ
chuyên
trách
có
trình
độ
chuyên
môn
và
biết
tiếng
địa
phương
(dân
tộc)
giúp
cho
việc
lắng
nghe
và
giải
quyết
những
tâm
tư,
nguyện
vọng
và
những
vấn
đề
bức
xúc
mà
người
dân
phản
ánh.
h) Xây dựng
và
thông
qua
Luật
trưng
cầu
ý
dân.
Đây
có
thể
nói
là
một
trong
những
hình
thức
hữu
hiệu
nhất
để
thực
thi
dân
chủ
trực
tiếp
và
quyền
dân
chủ
của
công
dân.
Văn
kiện
Đại
hội
đại
biểu
toàn
quốc
lần
IX
của
Đảng
đã
khẳng
định “Thực
hiện
tốt
quy
chế
dân
chủ,
mở
rộng
dân
chủ
trực
tiếp
ở
cơ
sở,
tạo
điều
kiện
để
nhân
dân
tham
gia
quản
lý
xã
hội,
thảo
luận
và
quyết
định
những
vấn đề
quan
trọng.
Khắc
phục
mọi
biểu
hiện
dân chủ
hình
thức.
Xây
dựng
Luật
trưng
cầu
ý
dân”8.
Chỉ
có
như
vậy,
tất
cả
mọi
dự
luật
và
các
văn
bản
pháp
luật
khác
cũng
như
các
chủ
trương,
chính
sách
của
Nhà
nước
trước
khi
được
xây
dựng,
thông
qua,
đi
vào
hiệu
lực
và
triển
khai
trên
thực
tiễn
được
đưa
ra
lấy
ý
kiến,
bàn
bạc
công
khai
và
rộng
rãi
với
người
dân
và
mới
có
hiệu
quả
và
thực
sự
phản
ánh
ý
chí
của
nhân
dân,
thuộc
về
nhân
dân./.
THS.
HOÀNG
VĂN
NGHĨA
Trung
tâm
Nghiên
cứu
Quyền
con
người,
Học
viện
Chính
trị
quốc
gia
Hồ
Chí
Minh.