Điều
tra
quốc
gia
bạo
lực
với
phụ
nữ
được
Bộ
LĐ-TB&XH,
Tổng
cục
Thống
kê,
Quỹ
Dân
số
Liên
Hợp
quốc
tại
Việt
Nam
thực
hiện
năm
2019,
công
bố
năm
2020
cho
thấy:
có
90,4%
phụ
nữ
bị
chồng
bạo
lực
thể
xác
hoặc
tình
dục
không
tìm
kiếm
sự
giúp
đỡ,
chỉ
có
4,8%
tìm
kiếm
sự
giúp
đỡ
của
cơ
quan
chức
năng.
Người
bị
bạo
lực
không
tìm
sự
giúp
đỡ
từ
các
cơ
quan
chính
quyền
chủ
yếu
do
sợ
bị
tai
tiếng,
kỳ
thị
và
phiền
hà.
Ngày
14/6/2022,
Quốc
hội
thảo
luận
về
dự
án
Luật
Phòng,
chống
BLGĐ
sửa
đổi.
Phát
biểu
tại
phiên
họp,
ĐBQH
Chamaléa
Thị
Thủy
(đoàn
Ninh
Thuận)
nhận
định
vấn
nạn
BLGĐ
đang
diễn
biến
nghiêm
trọng,
tinh
vi,
phức
tạp,
do
đó
cần
tạo
ra
hành
lang
pháp
lý
đầy
đủ,
chặt
chẽ.
Bà
Thủy
cho
rằng:
“Thời
gian
qua
đã
cho
thấy
chúng
ta
có
luật
nhưng
thực
tế
có
hành
vi
BLGĐ
xảy
ra
nhưng
hỗ
trợ
cho
người
bị
bạo
lực
chưa
hiệu
quả,
người
bị
BLGĐ
còn
lúng
túng,
không
biết
rõ
mình
cần
cầu
cứu
ai,
cơ
quan
có
trách
nhiệm
nào.
Ở
đâu
đó
còn
xem
nhẹ,
coi
đó
là
việc
của
gia
đình
nên
“đóng
cửa
bảo
nhau”
và
vô
hình
trung
làm
mất
lòng
tin
của
người
bị
bạo
lực”.
Theo
bà
Thủy,
điều
đó
dẫn
đến
họ
tiếp
tục
chịu
đựng,
hoặc
phản
vệ
theo
cách
tiêu
cực
để
chống
trả
lại
hành
vi
BLGĐ
và
nhiều
trường
hợp
chịu
hậu
quả
nặng
nề,
như
con
sát
hại
cha
mẹ,
vợ
chồng
sát
hại
nhau
do
tâm
lý
bức
xúc
dồn
nén.
“Do
vậy,
Luật
cần
chú
trọng
cơ
chế
phối
hợp
trách
nhiệm
cụ
thể
của
các
cơ
quan
tổ
chức.
Vì
BLGĐ
đòi
hỏi
sự
phối
hợp
của
nhiều
bộ,
ngành,
địa
phương,
cơ
quan
trong
việc
hỗ
trợ,
tránh
việc
biện
pháp
không
kịp
thời,
tương
xứng
với
hành
vi
vi
phạm
dẫn
đến
người
có
hành
vi
vi
phạm
BLGĐ
có
tâm
lý
coi
thường
pháp
luật”
-
bà
Thủy
kiến
nghị.
Tiếp
thu
ý
kiến
đóng
góp
của
các
ĐBQH,
toàn
bộ
Chương
III
của
Luật
Phòng,
chống
BLGĐ
năm
2022
(có
hiệu
lực
từ
ngày
1/7/2023)
là
các
điều
khoản
quy
định
về
bảo
vệ,
hỗ
trợ,
xử
lý
vi
phạm
trong
phòng,
chống
BLGĐ,
trong
đó
có
nội
dung
liên
quan
đến
chính
quyền
địa
phương
như:
UBND
cấp
xã
nơi
xảy
ra
hành
vi
BLGĐ
là
một
trong
những
nơi
tiếp
nhận
tin
báo,
tố
giác
về
hành
vi
BLGĐ;
Chủ
tịch
UBND
cấp
xã
có
trách
nhiệm
xử
lý
hoặc
phân
công
xử
lý
ngay
khi
tiếp
nhận
tin
báo,
tố
giác
về
hành
vi
BLGĐ
hoặc
nhận
được
báo
cáo
về
hành
vi
BLGĐ
của
tổ
chức,
cá
nhân;
Chủ
tịch
UBND
cấp
xã
nơi
xảy
ra
hành
vi
BLGĐ
quyết
định
áp
dụng
biện
pháp
cấm
tiếp
xúc
mỗi
lần
không
quá
03
ngày;
Chủ
tịch
UBND
cấp
xã
nơi
người
có
hành
vi
BLGĐ
cư
trú
quyết
định
và
tổ
chức
thực
hiện
biện
pháp
góp
ý,
phê
bình
người
có
hành
vi
BLGĐ
trong
cộng
đồng
dân
cư…
Đề
xuất
khoảng
cách
cấm
tiếp
xúc
50m
Bộ
VH,TT&DL
là
cơ
quan
được
giao
chủ
trì
soạn
thảo
Nghị
định
quy
định
chi
tiết
một
số
điều
của
Luật
Phòng,
chống
BLGĐ
2022.
Theo
tài
liệu
thẩm
định
dự
thảo
Nghị
định
vừa
được
Bộ
Tư
pháp
công
bố,
một
trong
những
nội
dung
đáng
chú
ý
liên
quan
đến
quy
định
cấm
tiếp
xúc
đối
với
người
có
hành
vi
BLGĐ.
Cụ
thể,
theo
dự
thảo,
người
bị
BLGĐ,
người
giám
hộ,
người
đại
diện
theo
pháp
luật
của
người
bị
BLGĐ
khi
thấy
hành
vi
BLGĐ
gây
tổn
hại
hoặc
đe
dọa
đến
sức
khỏe,
tính
mạng
của
người
bị
BLGĐ
thì
đề
nghị
Chủ
tịch
UBND
cấp
xã
nơi
xảy
ra
hành
vi
bạo
lực
ra
quyết
định
cấm
tiếp
xúc.
Ngoài
ra,
khi
có
sự
đồng
ý
của
những
người
trên
thì
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
có
thể
đề
nghị
Chủ
tịch
UBND
cấp
xã
nơi
ra
quyết
định
cấm
tiếp
xúc,
trên
nguyên
tắc
bảo
đảm
lợi
ích
cho
người
bị
BLGĐ
là
trẻ
em,
phụ
nữ
mang
thai,
phụ
nữ
đang
nuôi
con
dưới
36
tháng
tuổi,
người
cao
tuổi,
người
khuyết
tật,
người
không
có
khả
năng
tự
chăm
sóc,
người
đang
điều
trị
bệnh.
Thời
gian
quyết
định
cấm
tiếp
xúc
không
quá
ba
ngày
cho
mỗi
lần
kể
từ
thời
điểm
người
có
hành
vi
BLGĐ
nhận
quyết
định
và
không
quá
hai
lần
quyết
định
cấm
tiếp
xúc
liên
tiếp.
Dự
thảo
quy
định
người
bị
cấm
tiếp
xúc
theo
quyết
định
của
Chủ
tịch
UBND
cấp
xã
chỉ
được
tiếp
xúc
người
bị
BLGĐ
khi
có
việc
cưới,
việc
tang;
gia
đình
có
người
bị
tai
nạn,
bị
bệnh
nặng
hoặc
tham
gia
khắc
phục
hậu
quả
thiên
tai,
hỏa
hoạn,
dịch
bệnh.
Cũng
theo
dự
thảo,
khoảng
cách
cấm
tiếp
xúc
là
50m
nếu
không
có
tường
ngăn
hoặc
vách
ngăn
bảo
đảm
an
toàn.
Bên
cạnh
đó,
người
bị
cấm
tiếp
xúc
không
được
sử
dụng
điện
thoại,
fax,
thư
điện
tử
hoặc
sử
dụng
phương
tiện,
công
cụ
khác
để
thực
hiện
hành
vi
BLGĐ.
Hiện
nay,
Nghị
định
08/2009/NĐ-CP
quy
định
chi
tiết
và
hướng
dẫn
thi
hành
một
số
điều
của
Luật
Phòng,
chống
BLGĐ
hiện
hành
quy
định
khoảng
cách
cấm
tiếp
xúc
là
30m.
Tại
sao
lại
là
con
số
50m
thay
vì
30m
trong
dự
thảo
Nghị
định
quy
định
chi
tiết
một
số
điều
của
Luật
Phòng,
chống
BLGĐ
2022?
Theo
giải
trình
của
cơ
quan
chủ
trì
soạn
thảo
là
Bộ
VH,TT&DL
thì
thực
tiễn
cho
thấy
một
người
bình
thường
có
thể
ném
xa
30
-
50m,
trường
hợp
đặc
biệt
có
thể
trên
50m
và
người
trưởng
thành
chạy
cự
ly
100m
mất
khoảng
17
-
25
giây;
vận
động
viên
khoảng
10
-
15
giây.
Như
vậy,
quy
định
ở
khoảng
cách
không
có
vật
cản
với
người
bình
thường
ở
khoảng
cách
50m
có
thể
được
coi
là
an
toàn.
Mặt
khác,
trong
điều
kiện
có
vách
ngăn
kiên
cố
thì
việc
quy
định
khoảng
cách
là
không
cần
thiết.
Vì
vậy,
quy
định
như
dự
thảo
vừa
để
bảo
đảm
an
toàn
cho
người
bị
BLGĐ
vừa
là
cơ
sở
để
xác
định
vi
phạm
cấm
tiếp
xúc.
Tuy
có
lý
giải
vậy,
nhưng
nhiều
quan
điểm
vẫn
còn
băn
khoăn
khi
quy
định
này
đi
vào
thực
tiễn
liệu
có
bị
chung
chung,
khó
áp
dụng,
khó
kiểm
soát
hay
không?
Dự
thảo
Nghị
định
quy
định
người
có
hành
vi
BLGĐ
đã
bị
cấm
tiếp
xúc
hai
lần
liên
tiếp
mà
vẫn
tiếp
tục
có
hành
vi
BLGĐ
gây
tổn
hại
đến
sức
khỏe
hoặc
đe
dọa
tổn
hại
đến
sức
khỏe,
tính
mạng
thì
Chủ
tịch
UBND
cấp
xã
nơi
xảy
ra
hành
vi
BLGĐ
đề
nghị
cơ
quan
điều
tra
xem
xét
xử
lý
theo
quy
định
tại
Điều
134
BLHS
về
tội
“Cố
ý
gây
thương
tích”.
Quy
định
này
được
đánh
giá
là
hợp
lý,
bởi
xã,
phường
là
nơi
gần
nhất
và
nắm
rõ
hoàn
cảnh
của
từng
hộ
dân
nên
người
bị
BLGĐ
có
thể
đến
trình
báo
lấy
lời
khai
đầu
tiên
để
được
giải
quyết.
Do
đó,
việc
giao
Chủ
tịch
UBND
cấp
xã
đề
nghị
cơ
quan
điều
tra
xem
xét
xử
lý
theo
quy
định
của
pháp
luật
hình
sự
là
hoàn
toàn
phù
hợp.
Được
biết,
hiện
nay,
Thông
tư
07/2017/TT-BVHTTDL
của
Bộ
VH,TT&DL
quy
định
việc
thu
thập,
báo
cáo
thông
tin
về
gia
đình
và
phòng,
chống
BLGĐ
có
quy
định
UBND
cấp
xã,
phường
khi
tiếp
nhận
thông
tin
người
bị
BLGĐ
phải
báo
cáo
để
UBND
cấp
huyện
xử
lý.
Quy
định
này
được
đánh
giá
là
làm
hạn
chế
yêu
cầu
cần
nhanh
chóng,
kịp
thời
trong
các
hoạt
động
giải
quyết
BLGĐ
tại
địa
phương
trong
thực
tiễn
thực
thi.