Ảnh
minh
họa:
Nguồn
internet
1.
Khái
quát
chung
về
khiếu
nại,
tố
cáo
trong
bầu
cử
“
Bầu
cử
có
một
vị
trí
quan
trọng
trong
nền
chính
trị
hiện
đại.
Nhìn
vào
hệ
thống
bầu
cử
có
thể
hiểu
được
tính
chất
dân
chủ
của
hệ
thống
chính
trị
mỗi
nước”
[1].
Sau
Cách
mạng
tháng
Tám
năm
1945,
ngay
từ
khi
Nhà
nước
Việt
Nam
kiểu
mới
ra
đời,
bầu
cử
đã
được
Hiến
pháp
năm
1946
ghi
nhận
là
quyền
chính
trị
cơ
bản
của
công
dân.
Trong
suốt
quá
trình
phát
triển
của
Nhà
nước
ta,
bầu
cử
luôn
là
quyền
hiến
định
của
công
dân.
Không
chỉ
ghi
nhận
quyền
bầu
cử,
Hiến
pháp
và
các
văn
bản
luật
liên
quan
còn
quy
định
những
thiết
chế,
cách
thức
thực
hiện
và
bảo
đảm
thực
hiện
quyền
bầu
cử,
ứng
cử
của
công
dân,
trong
đó
có
quy
định
về
khiếu
nại,
tố
cáo.
Khiếu
nại,
tố
cáo
là
cách
thức
trực
tiếp
để
công
dân,
những
cá
nhân,
tổ
chức
khác
có
thể
phản
ánh
đến
các
cơ
quan
nhà
nước
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật,
những
sai
sót
trong
hoạt
động
bầu
cử
xâm
phạm
đến
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
cá
nhân,
tổ
chức
hoặc
lợi
ích
của
Nhà
nước.
Theo
quy
định
của
pháp
luật
về
khiếu
nại,
tố
cáo, khiếu
nại là
việc
cá
nhân,
tổ
chức
đề
nghị
cơ
quan,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
xem
xét
lại
quyết
định,
hành
vi
của
cơ
quan,
cá
nhân
nếu
có
căn
cứ
cho
rằng
quyết
định,
hành
vi
đó
vi
phạm
pháp
luật,
xâm
hại
đến
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
mình;
tố
cáo là
việc
cá
nhân
báo
với
cơ
quan,
người
có
thẩm
quyền
về
các
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật
của
bất
kỳ
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân.
Nếu
khiếu
nại
là
đề
nghị
xem
xét
lại
một
quyết
định,
một
hành
vi
để
bảo
vệ
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
người
khiếu
nại,
thì
tố
cáo
là
thông
báo
đến
cơ
quan,
người
có
thẩm
quyền
về
các
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật
nhằm
giúp
các
cơ
quan,
người
có
thẩm
quyền
phát
hiện
và
có
thông
tin
cần
thiết
để
xử
lý
vi
phạm
pháp
luật.
Trong
hoạt
động
bầu
cử
đại
biểu
Quốc
hội,
đại
biểu
Hội
đồng
nhân
dân,
khiếu
nại,
tố
cáo
đóng
vai
trò
sau
đây:
Thứ
nhất,
khiếu
nại,
tố
cáo
là
cách
thức
để
bảo
vệ
quyền,
lợi
ích
của
cá
nhân,
tổ
chức:
Bầu
cử
là
sự
kiện
quan
trọng
trong
sinh
hoạt
chính
trị
của
đất
nước
và
nhân
dân.
Bầu
cử
bao
gồm
rất
nhiều
các
hoạt
động
cụ
thể
được
thực
hiện
bởi
các
cơ
quan
nhà
nước,
các
tổ
chức
chính
trị
-
xã
hội,
tổ
chức
xã
hội
và
các
cá
nhân
khác,
nên
không
thể
tránh
khỏi
có
những
sai
sót
hoặc
có
thể
bị
cá
nhân,
tổ
chức
lợi
dụng
để
thực
hiện
hành
vi
trái
pháp
luật
nhằm
vụ
lợi.
Những
sai
sót,
vi
phạm
pháp
luật
trong
bầu
cử
làm
ảnh
hưởng
đến
quyền,
lợi
ích
của
cử
tri,
của
những
người
ứng
cử
và
cả
cá
nhân,
tổ
chức
khác.
Vì
vậy,
quyền
khiếu
nại,
tố
cáo
được
xem
như
một
cách
thức
bảo
vệ
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp,
chính
đáng
của
cá
nhân,
tổ
chức.
Thứ
hai,
khiếu
nại,
tố
cáo
còn
là
cách
thức
để
cử
tri
thông
tin
cho
các
cơ
quan,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
về
những
sai
sót,
những
hành
vi
vi
phạm
pháp
luật
trong
bầu
cử:
Các
cơ
quan
có
thẩm
quyền
có
thể
phát
hiện
ra
các
thiếu
sót,
vi
phạm
trong
bầu
cử
bằng
nhiều
hoạt
động
khác
nhau
như
giám
sát,
kiểm
tra,
thanh
tra…,
nhưng
với
số
lượng
cử
tri
đông
đảo,
sinh
sống,
làm
việc,
lao
động,
học
tập
ở
khắp
các
địa
bàn,
các
cơ
quan,
tổ
chức,
doanh
nghiệp,
nguồn
thông
tin
từ
cử
tri
giúp
cơ
quan
có
thẩm
quyền
tiếp
cận
nhanh
hơn,
đa
chiều
hơn,
giúp
nhanh
chóng
giải
quyết
khách
quan
từng
vụ
việc.
Thứ
ba,
khiếu
nại,
tố
cáo
cũng
là
cách
thức
để
công
dân
tham
gia
sâu,
rộng,
tích
cực
vào
bầu
cử.
Bởi
lẽ,
chỉ
khi
công
dân
tích
cực
tham
gia,
theo
dõi
chặt
chẽ
các
diễn
biến
của
hoạt
động
bầu
cử,
mới
có
thể
phát
hiện
những
sai
sót,
vi
phạm.
Có
thể
thấy
rằng,
các
quy
định
về
quyền
khiếu
nại,
tố
cáo
của
công
dân
đã
góp
phần
động
viên
cử
tri
tham
gia
“giám
sát”
hoạt
động
bầu
cử.
Khiếu
nại,
tố
cáo
là
một
trong
các
cách
thức
để
cá
nhân,
tổ
chức
có
thể
giám
sát
các
hoạt
động
bầu
cử
theo
các
cách
thức
phù
hợp
được
pháp
luật
quy
định.
Chính
tính
tích
cực,
chủ
động
của
cử
tri,
thông
qua
khiếu
nại,
tố
cáo
đã
giúp
các
cơ
quan
nhà
nước,
người
có
thẩm
quyền
kịp
thời
phát
hiện,
xử
lý
kịp
thời
những
sai
sót,
vi
phạm
trong
hoạt
động
bầu
cử.
2.
Các
quy
định
của
pháp
luật
hiện
hành
về
khiếu
nại,
tố
cáo
trong
bầu
cử
Khiếu
nại,
tố
cáo
trong
bầu
cử
được
quy
định
trong
Luật
Bầu
cử
đại
biểu
Quốc
hội
và
đại
biểu
Hội
đồng
nhân
dân
năm
2015
[2] (Luật
Bầu
cử).
Các
quy
định
về
khiếu
nại,
tố
cáo
trong
bầu
cử
tập
trung
vào
các
nội
dung
sau
đây:
Thứ
nhất,
các
trường
hợp
khiếu
nại,
tố
cáo:
-
Khiếu
nại
và
giải
quyết
khiếu
nại
danh
sách
cử
tri
Điều
33
Luật
Bầu
cử
quy
định
khi
kiểm
tra
danh
sách
cử
tri,
nếu
phát
hiện
có
sai
sót
thì
trong
thời
hạn
30
ngày
kể
từ
ngày
niêm
yết,
công
dân
có
quyền
khiếu
nại
với
cơ
quan
lập
danh
sách
cử
tri.
Trong
thời
hạn
05
ngày
kể
từ
ngày
nhận
được
khiếu
nại,
cơ
quan
lập
danh
sách
cử
tri
phải
giải
quyết
và
thông
báo
cho
người
khiếu
nại
biết
kết
quả
giải
quyết.
Trường
hợp
người
khiếu
nại
không
đồng
ý
về
kết
quả
giải
quyết
khiếu
nại
hoặc
hết
thời
hạn
giải
quyết
mà
khiếu
nại
không
được
giải
quyết
thì
có
quyền
khởi
kiện
tại
Tòa
án
nhân
dân
theo
quy
định
của
pháp
luật
về
tố
tụng
hành
chính.
-
Khiếu
nại,
tố
cáo
và
giải
quyết
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo
về
người
ứng
cử,
lập
danh
sách
người
ứng
cử
Theo
quy
định
của
Điều
61
Luật
Bầu
cử,
công
dân
có
quyền
tố
cáo
về
người
ứng
cử,
khiếu
nại,
tố
cáo,
kiến
nghị
về
những
sai
sót
trong
việc
lập
danh
sách
những
người
ứng
cử.
Khiếu
nại,
tố
cáo,
kiến
nghị
liên
quan
đến
người
ứng
cử
đại
biểu
Quốc
hội,
việc
lập
danh
sách
những
người
ứng
cử
đại
biểu
Quốc
hội
được
gửi
đến
Ban
bầu
cử
đại
biểu
Quốc
hội,
Ủy
ban
bầu
cử
ở
tỉnh,
Hội
đồng
Bầu
cử
quốc
gia;
khiếu
nại,
tố
cáo,
kiến
nghị
liên
quan
đến
người
ứng
cử
đại
biểu
Hội
đồng
nhân
dân,
việc
lập
danh
sách
những
người
ứng
cử
đại
biểu
Hội
đồng
nhân
dân
ở
cấp
nào
thì
được
gửi
tới
Ban
bầu
cử
đại
biểu
Hội
đồng
nhân
dân
ở
cấp
đó.
-
Khiếu
nại,
tố
cáo
về
kiểm
phiếu
Theo
quy
định
của
Điều
75
Luật
Bầu
cử,
trong
quá
trình
kiểm
phiếu
những
khiếu
nại,
tố
cáo
tại
chỗ
về
những
hành
vi
có
dấu
hiệu
vi
phạm
pháp
luật
trong
việc
kiểm
phiếu
do
Tổ
bầu
cử
nhận,
giải
quyết
và
ghi
nội
dung
giải
quyết
vào
biên
bản.
Trong
trường
hợp
Tổ
bầu
cử
không
giải
quyết
được
thì
phải
ghi
rõ
ý
kiến
của
Tổ
bầu
cử
vào
biên
bản
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo
và
chuyển
đến
Ban
bầu
cử.
-
Giải
quyết
khiếu
nại
về
kết
quả
bầu
cử
Điều
87
Luật
Bầu
cử
quy
định
khiếu
nại
về
kết
quả
bầu
cử
đại
biểu
Quốc
hội
phải
được
gửi
đến
Hội
đồng
Bầu
cử
quốc
gia
chậm
nhất
là
05
ngày
kể
từ
ngày
công
bố
kết
quả
bầu
cử
đại
biểu
Quốc
hội.
Hội
đồng
Bầu
cử
quốc
gia
có
trách
nhiệm
xem
xét,
giải
quyết
khiếu
nại
về
kết
quả
bầu
cử
đại
biểu
Quốc
hội
trong
thời
hạn
30
ngày
kể
từ
ngày
nhận
được
khiếu
nại.
Khiếu
nại
về
kết
quả
bầu
cử
đại
biểu
Hội
đồng
nhân
dân
phải
được
gửi
đến
Ủy
ban
Bầu
cử
chậm
nhất
là
05
ngày
kể
từ
ngày
công
bố
kết
quả
bầu
cử
đại
biểu
Hội
đồng
nhân
dân.
Ủy
ban
Bầu
cử
có
trách
nhiệm
xem
xét,
giải
quyết
khiếu
nại
về
kết
quả
bầu
cử
đại
biểu
Hội
đồng
nhân
dân
trong
thời
hạn
20
ngày
kể
từ
ngày
nhận
được
khiếu
nại.
Quyết
định
giải
quyết
khiếu
nại
của
Hội
đồng
bầu
cử
quốc
gia,
Ủy
ban
bầu
cử
là
quyết
định
cuối
cùng.
Trong
trường
hợp
phải
tổ
chức
bầu
cử
bổ
sung
hoặc
bầu
cử
lại
thì
các
khiếu
nại,
tố
cáo,
kiến
nghị
về
bầu
cử
bổ
sung,
bầu
cử
lại
được
giải
quyết
theo
các
quy
định
tương
ứng
của
Luật
Bầu
cử.
Thứ
hai,
về
thẩm
quyền
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo:
Luật
Bầu
cử
không
định
ra
một
cơ
quan
chuyên
trách
về
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo
cũng
như
thực
hiện
các
hoạt
động
nghiệp
vụ
trong
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo.
Thẩm
quyền
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo
có
thể
được
thực
hiện
ở
hai
cấp;
ví
dụ,
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo
về
người
ứng
cử,
lập
danh
sách
người
ứng
cử;
nhưng
cũng
có
thể
chỉ
được
thực
hiện
ở
một
cấp,
ví
dụ,
khiếu
nại
về
danh
sách
cử
tri.
Theo
quy
định
hiện
hành,
thẩm
quyền
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo
thuộc
về
Hội
đồng
Bầu
cử
quốc
gia,
các
tổ
chức
bầu
cử
ở
địa
phương
là
Ủy
ban
Bầu
cử,
Ban
bầu
cử,
Tổ
bầu
cử
đại
biểu
Quốc
hội,
đại
biểu
Hội
đồng
nhân
dân
các
cấp.
Cụ
thể,
Tổ
bầu
cử
chỉ
có
thẩm
quyền
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo
tại
chỗ
về
kiểm
phiếu.
Về
khiếu
nại,
tố
cáo,
kiến
nghị
liên
quan
đến
người
ứng
cử
đại
biểu
Quốc
hội,
việc
lập
danh
sách
những
người
ứng
cử
đại
biểu
Quốc
hội
thuộc
thẩm
quyền
giải
quyết
của
Ban
bầu
cử
đại
biểu
Quốc
hội,
Ủy
ban
bầu
cử
ở
tỉnh,
Hội
đồng
Bầu
cử
quốc
gia.
Trường
hợp
người
khiếu
nại,
tố
cáo
không
đồng
ý
với
kết
quả
giải
quyết
của
Ban
bầu
cử,
Ủy
ban
Bầu
cử
thì
có
quyền
khiếu
nại
đến
Hội
đồng
Bầu
cử
quốc
gia.
Về
khiếu
nại,
tố
cáo
liên
quan
đến
người
ứng
cử
đại
biểu
Hội
đồng
nhân
dân,
việc
lập
danh
sách
những
người
ứng
cử
đại
biểu
Hội
đồng
nhân
dân
ở
cấp
nào
thì
thuộc
thẩm
quyền
giải
quyết
của
Ban
bầu
cử
đại
biểu
Hội
đồng
nhân
dân
ở
cấp
đó.
Trường
hợp
người
khiếu
nại,
tố
cáo,
kiến
nghị
không
đồng
ý
với
kết
quả
giải
quyết
của
Ban
bầu
cử
thì
có
quyền
khiếu
nại
đến
Ủy
ban
Bầu
cử
ở
cấp
tương
ứng.
Khiếu
nại
về
kết
quả
bầu
cử
đại
biểu
Quốc
hội
thuộc
thẩm
quyền
của
Hội
đồng
Bầu
cử
quốc
gia.
Khiếu
nại
về
kết
quả
bầu
cử
đại
biểu
Hội
đồng
nhân
dân
thuộc
thẩm
quyền
của
Ủy
ban
Bầu
cử.
Với
tư
cách
là
cơ
quan
có
thẩm
quyền
lập
danh
sách
cử
tri
thì
Ủy
ban
nhân
dân
cấp
xã
hoặc
Ủy
ban
nhân
dân
huyện
có
thẩm
quyền
giải
quyết
khiếu
nại
về
danh
sách
cử
tri.
Ngoài
ra,
Luật
Bầu
cử
cũng
quy
định
những
khiếu
nại,
tố
cáo
chưa
được
giải
quyết
sẽ
được
Hội
đồng
Bầu
cử
quốc
gia,
Ủy
ban
Bầu
cử
chuyển
giao
cho
Ủy
ban
thường
vụ
Quốc
hội
và
Thường
trực
Hội
đồng
nhân
dân
khóa
mới
xem
xét
giải
quyết
tiếp.
Thứ
ba,
về
thủ
tục
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo:
Do
bầu
cử
là
hoạt
động
chỉ
diễn
ra
trong
một
giai
đoạn
nhất
định
nên
Luật
Bầu
cử
đơn
giản
hóa
quy
định
về
thủ
tục
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo.
Luật
không
quy
định
về
hình
thức
khiếu
nại;
các
hoạt
động
thu
thập
thông
tin,
xác
minh,
…
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo.
Bên
cạnh
đó,
các
thời
hạn
khiếu
nại,
tố
cáo
và
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo
cũng
được
rút
ngắn.
Luật
Bầu
cử
không
quy
định
thời
hạn
khiếu
nại,
tố
cáo
và
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo
về
người
ứng
cử
và
danh
sách
người
ứng
cử.
Tuy
nhiên,
Luật
quy
định
việc
xem
xét
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo
về
người
ứng
cử,
danh
sách
người
ứng
cử
phải
kết
thúc
trong
thời
hạn
10
ngày
trước
ngày
bầu
cử;
khiếu
nại
kết
quả
bầu
cử
phải
được
gửi
đến
Hội
đồng
Bầu
cử
quốc
gia
(đối
với
bầu
đại
biểu
Quốc
hội),
Ủy
ban
Bầu
cử
đại
biểu
Hội
đồng
nhân
dân
các
cấp
trong
thời
hạn
5
ngày
kể
từ
ngày
công
bố
kết
quả
bầu
cử;
khiếu
nại
được
giải
quyết
trong
thời
hạn
30
ngày
đối
với
khiếu
nại
kết
quả
bầu
đại
biểu
Quốc
hội
và
20
ngày
đối
với
kết
quả
bầu
đại
biểu
Hội
đồng
nhân
dân
các
cấp.
Ngoài
ra,
Luật
Bầu
cử
cũng
quy
định
khiếu
nại,
tố
cáo
và
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo
về
bầu
cử
ở
bất
kỳ
giai
đoạn
nào
cũng
phải
được
lưu
vào
hồ
sơ
bầu
cử.
3.
Nhận
xét
và
kiến
nghị
Mặc
dù
Luật
Bầu
cử
không
phải
luật
chuyên
ngành
quy
định
về
khiếu
nại,
tố
cáo
và
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo,
nhưng
các
quy
định
về
khiếu
nại,
tố
cáo
trong
hoạt
động
bầu
cử
có
vai
trò
rất
quan
trọng,
vì
vậy
cần
được
quy
định
rõ
ràng,
minh
bạch.
Việc
phân
tích
các
quy
định
của
Luật
Bầu
cử
về
khiếu
nại,
tố
cáo
cho
thấy,
các
quy
định
về
khiếu
nại,
tố
cáo
trong
hoạt
động
bầu
cử
còn
đơn
giản,
chưa
toàn
diện,
thiếu
chặt
chẽ,
thể
hiện
ở
một
số
điểm
sau:
Thứ
nhất,
Luật
Bầu
cử
chưa
phân
biệt
giữa
chủ
thể
quyền
khiếu
nại
với
chủ
thể
tố
cáo
trong
hoạt
động
bầu
cử.
Theo
các
quy
định
hiện
hành,
người
tố
cáo
có
thể
là
bất
kỳ
cá
nhân
nào
biết
về
vi
phạm
pháp
luật,
báo
cho
cơ
quan
nhà
nước
có
thẩm
quyền
để
xử
lý.
Người
tố
cáo
trong
bầu
cử
cũng
có
thể
là
bất
kỳ
cá
nhân
nào
biết
về
các
vi
phạm
pháp
luật
của
cử
tri,
người
ứng
cử,
các
tổ
chức
bầu
cử,
thành
viên
của
các
tổ
chức
bầu
cử
đều
được
thực
hiện
quyền
tố
cáo.
Do
việc
khiếu
nại
phải
gắn
với
yêu
cầu
bảo
vệ
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
người
khiếu
nại
nên
pháp
luật
bầu
cử
cần
phải
xác
định
rõ
quyền
khiếu
nại
thuộc
về
chủ
thể
nào.
Cụ
thể,
Luật
cần
quy
định
rõ,
đối
với danh
sách
cử
tri thì
người
khiếu
nại
là
cử
tri
hoặc
công
dân
có
đủ
điều
kiện
là
cử
tri
khiếu
nại
về
danh
sách
cử
tri
có
liên
quan
đến
mình;
đối
với
việc lập
danh
sách
người
ứng
cử,
người
khiếu
nại
phải
là
người
đã
được
giới
thiệu
ứng
cử
hoặc
tự
ứng
cử
khi
phát
hiện
có
sai
sót
trong
danh
sách
người
ứng
cử
liên
quan
đến
mình;
các
cơ
quan,
tổ
chức
giới
thiệu
người
ứng
cử
cũng
có
quyền
khiếu
nại
về
danh
sách
người
ứng
cử
liên
quan
đến
người
ứng
cử
do
cơ
quan,
tổ
chức
đã
giới
thiệu; khiếu
nại
về
kết
quả
bầu
cử chỉ
nên
được
xác
định
là
quyền
của
người
ứng
cử.
Việc
xác
định
rõ
người
khiếu
nại
không
chỉ
giúp
cá
nhân,
tổ
chức
hiểu
được
quyền,
nghĩa
vụ
của
mình
mà
còn
làm
căn
cứ
để
các
tổ
chức
bầu
cử
có
thể
từ
chối
giải
quyết
những
khiếu
nại
do
người
không
có
quyền
khiếu
nại
gửi
đến
cũng
như
hạn
chế
trường
hợp
cá
nhân,
tổ
chức
lợi
dụng
quyền
khiếu
nại
làm
cản
trở
hoạt
động
bầu
cử.
Thứ
hai,
Luật
Bầu
cử
không
quy
định
cụ
thể
về
thủ
tục
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo
trong
hoạt
động
bầu
cử.
Luật
Bầu
cử
chủ
yếu
quy
định
về
thời
hạn,
thời
hiệu
trong
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo
và
hầu
như
không
quy
định
cụ
thể,
trực
tiếp
về
thủ
tục
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo.
Các
quy
định
về
thủ
tục
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo
được
quy
định
trong
Luật
Khiếu
nại,
Luật
Tố
cáo.
Theo
đó,
để
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo
cần
thực
hiện
nhiều
hoạt
động
có
yêu
cầu
về
chuyên
môn,
nghiệp
vụ
như
là
thu
thập
thông
tin,
xác
minh,
điều
tra.
Tuy
nhiên,
hoạt
động
bầu
cử
mang
tính
chất
đặc
thù,
cơ
quan
có
thẩm
quyền
giải
quyết
khiếu
nại
tố
cáo
là
các
tổ
chức
phụ
trách
bầu
cử
với
thành
phần
chủ
yếu
là
các
cá
nhân
đại
diện
cho
các
cơ
quan
nhà
nước,
các
tổ
chức
chính
trị,
chính
trị
-
xã
hội
nên
vệc
thực
hiện
những
hoạt
động
này
là
khó
khăn
và
không
hiệu
quả.
Trên
thực
tế,
tất
cả
các
hoạt
động
thu
thập
thông
tin,
xác
minh…
trong
bầu
cử
đều
được
giao
cho
các
cơ
quan
hành
chính
thực
hiện.
Tuy
nhiên,
căn
cứ
pháp
lý
để
cơ
quan
hành
chính
giúp
các
tổ
chức
phụ
trách
bầu
cử
trong
hoạt
động
thu
thập,
xác
minh
thông
tin
là
không
rõ
ràng.
Để
khắc
phục
bất
cập
này,
chúng
tôi
cho
rằng,
Luật
Bầu
cử
cần
bổ
sung
quy
định
những
trường
hợp
khiếu
nại,
tố
cáo
mà
các
tổ
chức
phụ
trách
bầu
cử
có
thể
giao
cho
cơ
quan
nhà
nước,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
tiến
hành
thu
thập
thông
tin,
tài
liệu,
tiến
hành
xác
minh
bằng
văn
bản;
để
bảo
vệ
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
người
tố
cáo,
Luật
cũng
cần
bổ
sung
quy
định
các
cơ
quan,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
giải
quyết
tố
cáo,
cơ
quan
cá
nhân
được
giao
xác
minh
nội
dung
tố
cáo
phải
bảo
đảm
bí
mật
họ
tên,
địa
chỉ,
bút
tích
của
người
tố
cáo.
Điều
75
Luật
Bầu
cử
chỉ
quy
định
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo
về
kiểm
phiếu
tại
chỗ
của
Tổ
bầu
cử,
nếu
không
giải
quyết
được
thì
chuyển
đến
Ban
bầu
cử
mà
không
quy
định
rõ
Ban
bầu
cử
sẽ
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo
này
trong
thời
hạn
bao
nhiêu
lâu.
Để
bảo
đảm
tính
khả
thi
của
điều
luật
này,
chúng
tôi
cho
rằng,
cần
sửa
đổi
Điều
75
theo
hướng
xác
định
rõ
thời
gian
Ban
bầu
cử
giải
quyết
khiếu
nại,
tố
cáo
về
kiểm
phiếu
do
Tổ
bầu
cử
chuyển
đến
là
3
ngày
để
quy
định
này
có
thể
được
hiểu
là
việc
chuyển
đến
Ban
bầu
cử
chỉ
có
ý
nghĩa
để
báo
cáo.
Thời
hạn
này
phù
hợp
với
thời
hạn
xác
định
và
công
bố
kết
quả
bầu
cử.
Ngoài
ra,
để
có
cơ
sở
xem
xét
giải
quyết
cũng
như
xác
định
trách
nhiệm
của
người
khiếu
nại,
tố
cáo,
Luật
Bầu
cử
cần
bổ
sung
quy
định
việc
khiếu
nại,
tố
cáo
phải
thực
hiện
bằng
hình
thức
văn
bản
(đơn
khiếu
nại,
đơn
tố
cáo),
trừ
trường
hợp
khiếu
nại,
tố
cáo
tại
chỗ
về
kết
quả
kiểm
phiếu
không
nhất
thiết
phải
bằng
văn
bản./.
[1] TS.
Lưu
Văn
Quảng,
Hệ
thống
bầu
cử
ở
Anh,
Mỹ
và
Pháp
-
Lý
thuyết
và
hiện
thực,
Nxb.
Chính
trị
quốc
gia,
Hà
Nội
năm
2009,
tr.5.
[2] Luật
Bầu
cử
đại
biểu
Quốc
hội
và
đại
biểu
Hội
đồng
nhân
dân
được
Quốc
hội
nước
Cộng
hòa
xã
hội
chủ
nghĩa
Việt
Nam
khóa
XIII,
kỳ
họp
thứ
9
thông
qua
ngày
25
tháng
6
năm
2015
và
có
hiệu
lức
từ
ngày
1
tháng
9
năm
2015.